Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay phần lớn thuộc thành phần kinh tế tư nhân, hoạt động trên tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ, vì vậy có vai trò đặc biệt quan trọng trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Thành phố, phù hợp với chủ trương và định hướng của Đảng, Chính phủ theo Nghị quyết TW 10 về phát triển kinh tế tư nhân.
Theo đó, đã và đang có những chính sách riêng, từ luật, đến nghị quyết và thông tư nhằm hỗ trợ cho DNNVV phát triển, như: Luật Hỗ trợ DNNVV; Nghị quyết 35 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; Nghị quyết 19 của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh... Ngành Ngân hàng, UBND Tp. Hồ Chí Minh cũng đã có những biện pháp cụ thể, tiếp tục tạo sự thuận lợi và hỗ trợ trực tiếp cho các DNNVV nói chung và trên địa bàn Thành phố nói riêng. Trong đó, để thực hiện các giải pháp về tài chính tín dụng, NHTW đã ban hành hệ thống giải pháp: từ cải cách hành chính đến cơ chế chính sách tín dụng, lãi suất…nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV tiếp cận vốn vay, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên để tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, tiếp tục tạo thuận lợi cho các DNNVV trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, bài viết phân tích, đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong tiếp cận vốn tín dụng đối với DNNVV trên địa bàn Thành phố, từ đó đưa ra các giải pháp cải thiện và nâng cao khả năng tiếp cận vốn tín dụng cho DNNVV, góp phần nâng cao chỉ số về khả năng tiếp cận tin dụng Quốc gia.
Các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp và hoạt động doanh nghiệp thành phố Hồ Chí Minh
Những thuận lợi và yếu tố tác động tích cực nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho các DNNVV trên địa bàn Thành phố
Dưới góc độ quản lý, phân tích, đánh giá những yếu tố thuận lợi tác động tích cực trong việc nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng nhìn trên 3 nhóm yếu tố chính sau:
Nhóm yếu tố về cơ chế chính sách của Chính phủ, của NHTW và UBDNTP. Trong giai đoạn vừa qua, đặc biệt 3 năm trở lại đây, hệ thống cơ chế chính sách của Chính phủ, của NHTW và UBNDTP đã và đang tập trung hỗ trợ rất tốt cho các doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV như Nghị định 39/2018/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của luật Hỗ trợ DNNVV; Nghị định 34/2018/NĐ-CP về Qũy bảo lãnh tín dụng cho DNNVV; Nghị định 38/2018/NĐ-CP về đầu tư cho DNNVV khởi nghiệp sáng tạo; Nghị quyết 35 của Chính phủ về hỗ trợ doanh nghiệp phát triển; Hệ thống cơ chế chính sách của NHTW về tiền tệ, tín dụng và lãi suất. Trong đó DNNVV là nhóm đối tượng ưu tiên trong tập trung vốn để sản xuất kinh doanh, hỗ trợ lãi suất vay (áp dụng trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng tiền đồng). Bên cạnh đó, các DNNVV hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp & nông thôn; lĩnh vực xuất khẩu; công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao…được hỗ trợ bởi các chính sách tín dụng đối với lĩnh vực này của Chính phủ, của NHTW và UBNDTP. Riêng UBNDTP có các chính sách về kích cầu đầu tư; công nghiệp hỗ trợ và phát triển sản phẩm chủ lực; chính sách chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp&nông thôn.
Thông qua hệ thống cơ chế chính sách đã có tác động tích cực, hỗ trợ cho DNNVV phục hồi và duy trì sản xuất (trong giai đoạn khó khăn kinh tế vĩ mô) và tăng trưởng và phát triển trong giai đoạn hiện nay. Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế thành phố có đóng góp không nhỏ từ khu vực kinh tế tư nhân và DNNVV.
Nhóm yếu tố về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Trong đó cải cách hành chính là động lực chính trong hoạt động hỗ trợ DNNVV phát triển.
Cải cách hành chính trong lĩnh vực ngân hàng đã góp phần quan trọng trong hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, trực tiếp tạo điều kiện nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho DNNVV, thông qua việc thực hiện hiệu quả chương trình hành động 1355 của NHTW và 3907 của UBNDTP về thực hiện Nghị quyết 35 của Chính phủ. Với các hoạt động và hành động cụ thể sau:
+ Cải tiến mô hình giao dịch, lấy khách hàng làm trung tâm: Các TCTD trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh tiếp tục thực hiện cải tiến, đổi mới quy trình cho vay theo hướng đơn giản hóa thủ tục, giảm bớt phiền hà cho khách hàng vay vốn, nhưng vẫn đảm bảo an toàn vốn vay. Một số NHTM đã áp dụng hệ thống đăng ký khoản vay trực tuyến và ứng dụng điện thoại, tạo điều kiện cho khách hàng chủ động đăng ký khoản vay trực tuyến, giảm thiểu thời gian giao dịch; Nâng cao khả năng thẩm định để rút ngắn thời gian giải quyết cho vay, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng; Thực hiện cải tiến theo hình thức một cửa quy trình gửi tiết kiệm, quy trình dịch vụ chuyển tiền, kiều hối, dịch vụ thẻ, dịch vụ tiền mặt và các dịch vụ thanh toán khác… để giảm chi phí, rút ngắn thời gian cung cấp dịch vụ và thời gian chờ đợi của khách hàng đến giao dịch.
+ Nâng cao chất lượng dịch vụ: các TCTD trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh đã và đang tập trung đẩy mạnh nâng cao chất lượng dịch vụ, phát triển, đa dạng hóa các sản phẩm phi tín dụng có khả năng giao dịch bằng các phương tiện điện tử trên môi trường mạng với tính năng an toàn, bảo mật cao, nâng cao khả năng phục vụ; Tập trung đầu tư công nghệ phát triển sản phẩm online; Đẩy mạnh phát triển sản phẩm dịch vụ trên các kênh điện tử 24/7; Cung cấp dịch vụ ngân hàng kỹ thuật số; Đầu tư phần mềm thanh toán thuế điện tử nhằm hỗ trợ khách hàng trong việc thanh toán thuế thông qua ký hợp đồng cộng tác với Tổng cục Thuế, kết nối cổng thông tin điện tử với Tổng cục Hải quan, đáp ứng yêu cầu Bộ Tài chính trong việc đẩy mạnh thanh toán thuế điện tử.
+ Nâng cao chất lượng quản trị, chất lượng kiểm soát nội bộ:Thực hiện công khai trên trang tin điện tử của đơn vị về thủ tục cho vay và các thủ tục khác, cập nhật kịp thời thông tin hoạt động, ngừng giao dịch, nâng cấp hệ thống. Thiết lập và vận hành có hiệu quả hệ thống quản lý rủi ro, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán nội bộ và tự giám sát chất lượng dịch vụ. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế nội bộ về chăm sóc khách hàng để có thể xử lý kịp thời, thỏa đáng các phản ánh, khiếu nại của khách hàng.
Quá trình này, không chỉ nâng cao hiệu quả quản lý, quản trị tốt rủi ro mà còn góp phần giảm chi phí đầu vào, trên cơ sở đó giảm chi phí đầu ra và giảm lãi suất cho vay bền vững. Đây là kết quả quan trọng và là mục tiêu cải cách hành chính đối với các TCTD nhằm cải thiện và nâng cao năng suất lao động, nâng cao năng lực canh tranh mềm trong quá trình phát triển.
Nhóm yếu tố về các giải pháp và chương trình hành động cụ thể. Trong đó chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp và hoạt động đối thoại doanh nghiệp - là các giải pháp, hành động cụ thể của Chính quyền địa phương và các cơ quan quan lý trên địa bàn.
Chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp có thể nói là hành động cụ thể nhằm đưa chủ trương, cơ chế chính sách của Chính phủ, của NHTW và UBNDTP đi vào thực tế cuộc sống. Hiệu quả của chương trình và tác động hiệu ứng của chương trình - đã trở thành giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp theo Nghị quyết 35 của Chính phủ. Trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh, chương trình được cộng đồng doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng đánh giá cao nhờ tính thực tế, thiết thực trong việc hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn vay và vay vốn ngân hàng với lãi suất ưu đãi, trực tiếp hỗ trợ cho doanh nghiệp. Kết quả này có ý nghĩa rất lớn trong giai đoạn khó khăn kinh tế vĩ mô, do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đối với các DNNVV: sự phục hồi và duy trì sản xuất, từng bước vượt qua khó khăn và tăng trưởng của các DNNVV trên địa bàn trong giai đoạn 2012-2015 có vai trò rất lớn của chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp. Hiện nay chương trình này tiếp tục được thực hiện với vai trò và nội hàm lớn hơn: hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, kết nối để mở rộng và phát triển dịch vụ ngân hàng, để hỗ trợ doanh nghiệp phát triển không chỉ về vốn mà còn dịch vụ ngân hàng và phản ánh chính sách; củng cố quan hệ ngân hàng - doanh nghiệp để đồng hành phát triển, đó là sự kết nối bền vững, không chỉ trong giai đoạn khó khăn mà còn là bài học kinh nghiệm quý báu trong công tác quản lý, triển khai tổ chức thực hiện cơ chế chính sách.
Những khó khăn vướng mắc
Những khó khăn vướng mắc liên quan đến hoạt động ngân hàng, đã và đang được các TCTD và ngành ngân hàng tháo gỡ trực tiếp thông qua hoạt động cải cách hành chính với những kết quả đạt được quan trọng như đã phân tích ở phần trên. Trong đó DNNVV luôn là nhóm khách hàng được đặc biệt quan tâm của các TCTD trên địa bàn, với tư duy là khách hàng là trung tâm của đổi mới và phát triển. Tuy nhiên trong quá trình này để góp phần nâng cao khả năng tiếp cận vốn, chính các DNNVV cũng cần quan tâm đổi mới, khắc phục những tồn tại hạn chế để tạo lập và củng cố niềm tin trong quan hệ tín dụng ngân hàng - quan hệ “chọn mặt gửi vàng” để cùng phát triển. Theo đó về phía DNNVV vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần quan tâm khắc phục, đổi mới. Cụ thể, cần quan tâm một số vấn đề sau:
Thứ nhất, hạn chế về năng lực hoạch định và chiến lược kinh doanh; tính minh bạch, công khai tài chính chưa cao. Trong đó hệ thống báo cáo tài chính của một số DNNVV chưa chính xác, thiếu minh bạch, hoặc chưa được kiểm toán theo quy định, làm ảnh hưởng đến việc xét duyệt cho vay.
Một số DNNVV có kỹ năng hoạch định yếu, xây dựng phương án kinh doanh sơ sài, thiếu tính khả thi. Do thiếu thông tin thị trường cũng như năng lực quản trị, điều hành hạn chế, dẫn đến tình trạng DNNVV chưa có kế hoạch ứng phó kịp thời với sự biến động của thị trường, lãi suất, tỷ giá…
Thứ hai, năng lực cạnh tranh, năng lực tài chính và hiệu quả kinh doanh còn hạn chế. Trong đó một số DNNVV còn hạn chế về khả năng kinh doanh và hiệu quả hoạt động do quy mô nhỏ, chưa có kinh nghiệm về thị trường, phần lớn hoạt động chưa chuyên môn hóa, máy móc thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh lạc hậu, chưa được đầu tư hiện đại đồng bộ nên, không đáp ứng được các tiêu chí để làm tài sản bảo đảm tiền vay, cũng như để sản xuất các sản phẩm có chất lượng; chủ yếu gia công, hợp tác sản xuất công đoạn nhỏ cho tổng công ty lớn, tập đoàn, nên chưa tạo được uy tín, vị thế trên thị trường, năng lực cạnh tranh thấp.
Một số DNNVV vốn tự có ở mức thấp nhiều lần so với vốn vay nên hệ số an toàn tài chính không đảm bảo, không có tài sản thế chấp hoặc giá trị tài sản thế chấp không đủ đảm bảo khoản vay.
Thứ ba, rủi ro thị trường ở mức độ lớn. Sự linh hoạt trong thay đổi quy mô, điều chỉnh chiến lược sản xuất kinh doanh dịch vụ luôn là lợi thế của các doanh nghiệp nhỏ và và vừa mỗi khi thị trường biến động. Song đây cũng là hạn chế, bởi mỗi khi thị trường biến động thì rủi ro cũng rất lớn đối với các DNNVV về tiêu thụ sản phẩm, cũng như cạnh tranh trên thị trường (giá cả và chi phí, chất lượng...). Điều này cũng ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng ngân hàng - doanh nghiệp và đến khả năng tiếp cận vốn của các DNNVV.
Một số giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho các DNNVV trên địa bàn Thành phố
(1). Khắc phục tồn tại hạn chế và xây dựng thương hiệu, niềm tin vững chắc đối với doanh nghiệp:
Về mặt chủ trương, chính sách việc nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp là nhiệm vụ và trách nhiệm của các cơ quan quản lý trong việc tạo lập môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư thuận lợi, hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển. Đây là những nhiệm vụ đã và đang được thực hiện và là những thuận lợi đối với việc nâng cao khả năng tiếp cận vốn (như đã phân tích ở phần trên). Tuy nhiên về phía doanh nghiệp, sản xuất kinh doanh dịch vụ trong nền kinh tế thị trường, cũng cần phải chủ động và tôn trọng kỷ luật thị trường, các giải pháp quản lý chỉ là hỗ trợ doanh nghiệp, sự hoạt động hiệu quả và tạo lập được niềm tin, uy tín và thương hiệu do mỗi doanh nghiệp phát triển và phụ thuộc vào chính doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng cần quan tâm đổi mới, nâng cao trình độ quản lý, năng lực cạnh tranh bằng việc tổ chức hoạt động chuyên nghiệp, công khai minh bạch tài chính, hoạt động hiệu quả. Tất cả các yếu tố này được hình thành và phát triển tốt sẽ góp phần quan trọng trong phát triển quan hệ tín dụng ngân hàng - khách hàng; góp phần nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của DNNVV.
(2). Đổi mới để phát triển.
Trong điều kiện hội nhập sâu, rộng và tác động nhanh mạnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đối với mọi doanh nghiệp, mọi lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế - xã hội, đòi hỏi các DNNVV cần chủ động và quyết tâm đổi mới phương thức quản lý, phương thức tổ chức sản xuất, khắc phục những hạn chế trong tư duy quản lý kiểu mô hình gia đình tại hầu hết các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ; đổi mới và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, năng suất lao động, tạo ra những sản phẩm chất lượng và giá cả phù hợp để cạnh tranh tốt trên thị trường. Thực tế các DNNVV phát triển theo xu hướng này đã và đang hoạt động hiệu quả và có uy tín trên thị trường. Một số doanh nghiệp có sản phẩm xuất khẩu chất lượng tốt, quan hệ tín dụng tốt với ngân hàng và trở thành những khách hàng truyền thống, uy tín và có xếp hạng tín nhiệm cao.
(3). Tiếp tục thực hiện hiệu quả chương trình cải cách hành chính,chương trình hành động 1355 của ngành ngân hàng
Đây là chương trình có thể nói đã bao quát tất cả các giải pháp từ: phát triển dịch vụ ngân hàng, đến đổi mới quy trình giao dịch; ứng dụng công nghệ và nâng cao hiệu quả quản lý đến công tác chăm sóc khách hàng cũng như thông tin tư vấn dịch vụ.. cho khách hàng, doanh nghiệp. Vì vậy thực hiện tốt chương trình hành động 1355 của NHTW sẽ cho phép các TCTD đạt được các mục tiêu trong phát triển dịch vụ ngân hàng và hiệu quả kinh doanh. Đồng thời hỗ trợ tốt cho doanh nghiệp và thu hút khách hàng. Ý nghĩa và giá trị thực tế của chương trình hành động 1355 là rất lớn, các TCTD nói chung và trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh nói riêng cần tiếp tục quan tâm thực hiện tốt, thông qua đó góp phần trực tiếp cải thiện và nâng cao khả năng tiếp cận vốn cho DNNVV, cũng như nâng cao chỉ số tiếp cận tín dụng Quốc gia.
(4). Tiếp tục thực hiện tốt hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, phát huy hiệu quả công tác phối hợp.
Trong đó tiếp tục tổ chức tốt chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp với cách tiếp cận rộng hơn: kết nối không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn, tháo gỡ khó khăn doanh nghiệp mà còn kết nối phát triển và mở rộng sử dụng các dịch vụ ngân hàng khác, đặc biệt là các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt - với lợi ích mang lại rất lớn cho doanh nghiệp, cũng như tạo điều kiện thuận lợi trong việc nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng, nhờ việc nắm bắt tốt thông tin tài chính và dòng tiền của doanh nghiệp, từ đó mở rộng và phát triển phương thức cho vay tín chấp dựa trên cơ sở hiệu quả hoạt động và tài chính của doanh nghiệp.
Tô Duy Lâm
Nguồn: TCNH chuyên đề đặc biệt 2019