Hoàn thiện mô hình tổ chức thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp
02/10/2019 6.350 lượt xem
Một trong những nội dung trọng tâm tại Nghị quyết Đại hội Đảng XII đã được thông qua là yêu cầu phải “Nghiên cứu mô hình quản lý phù hợp của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn của nhà nước tại doanh nghiệp”. Triển khai văn kiện Đại hội XII, ngày 03/6/2017, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
 
Theo đó, Nghị quyết đề ra 5 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, bao gồm: (i) Đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; (ii) Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để doanh nghiệp nhà nước thật sự vận hành theo cơ chế thị trường; (iii) Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống quản trị và nâng cao năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước; (iv) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước, và (v) Đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của tổ chức đảng; phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp tại doanh nghiệp nhà nước. 
 
Nghị quyết 12-NQ/TW cũng chỉ rõ doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Mặt khác, tập trung nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; không để xảy ra thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Tách bạch, phân định rõ chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức năng quản lý nhà nước đối với mọi loại hình doanh nghiệp… 
 
Thực tế, thời gian qua, Đảng và Nhà nước luôn quan và dành nhiều sự hỗ trợ đối với lĩnh vực này, trải suốt quá trình xây dựng và đổi mới, đã có rất nhiều các quyết định, Nghị quyết, các Luật như Luật Doanh nghiệp Nhà nước 1995, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Quản lý, sử dụng vốn vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, cùng với đó là hàng trăm văn bản dưới Luật để hướng dẫn, triển khai thi hành các Luật này. Đây là những hành lang pháp lý đặc biệt quan trọng để hỗ trợ và nâng cao vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình xây dựng và đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
 
Trên cơ sở các định hướng này của Đảng, Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, xây dựng trình Chính phủ, Bộ Chính trị Đề án “Thành lập cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước tại doanh nghiệp”. Sau nhiều lần thảo luận, trao đổi và lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, Chính phủ đã báo cáo Bộ Chính trị về Đề án này. Bộ Chính trị đã thông qua Đề án và đồng ý thành lập Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp là cơ quan thuộc Chính phủ (Thông báo số 40-TB/TW ngày 14/9/2017 của BCHTW về Đề án “Thành lập cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước tại doanh nghiệp”). 
 
Triển khai thực hiện kết luận này, Chính phủ đã thành lập và chính thức đưa Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đi vào hoạt động. Đến ngày 29/9/2018, Chính phủ đã quyết định ban hành Nghị định số 131/2018/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Theo Nghị định này, 19 tập đoàn, tổng công ty do các Bộ, ngành quản lý trước đây được chuyển giao về Ủy ban. Một số ít Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố vẫn tiếp tục thực hiện quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, bao gồm:
 
(i) Bộ Quốc phòng, Bộ Công an tiếp tục quản lý các doanh nghiệp đáp ứng tiêu chí doanh nghiệp quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật hiện hành;
 
(ii) Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tiếp tục quản lý vốn nhà nước tại các tổ chức tín dụng (TCTD), doanh nghiệp đặc thù để đảm bảo tính liên tục và hiệu quả của quản lý nhà nước trong thực hiện cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là các TCTD. Đồng thời, không để cho các ngân hàng thương mại và doanh nghiệp về cùng một đầu mối quản lý nhằm tránh rủi ro và đảm bảo tính khách quan trong hoạt động tín dụng, cho vay theo kinh nghiệm quốc tế.
 
(iii) Bộ quản lý ngành tiếp tục quản lý các doanh nghiệp đáp ứng tiêu chí là doanh nghiệp cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích và các tổ chức kinh tế, tài chính đặc thù phục vụ công tác quản lý của các Bộ.
 
(iv) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục quản lý công ty xổ số và doanh nghiệp cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích, phục vụ an sinh xã hội địa phương.
 
Như vậy, theo Đề án đã được thông qua, nhiệm vụ thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu của NHNN không thay đổi so với trước đây. Hơn nữa, theo Quyết định 58/2016/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước và danh mục doanh nghiệp nhà nước thực hiện sắp xếp giai đoạn 2016 - 2020, có 02 lĩnh vực NHNN phụ trách quản lý mà Nhà nước sẽ vẫn nắm giữ 100% là (i) In, đúc tiền, sản xuất vàng miếng và các vật phẩm lưu niệm bằng vàng, và (ii) Tín dụng chính sách phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng và TCTD. Bên cạnh đó, lĩnh vực “Tài chính, ngân hàng (không bao gồm bảo hiểm, chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính)” cũng được Thủ tướng Chính phủ định hướng nắm giữ từ 65% vốn điều lệ trở lên. Như vậy, NHNN sẽ tiếp tục đảm nhận nhiệm vụ thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các TCTD, doanh nghiệp đặc thù trong một thời gian dài sắp tới.
 
Thực tế, số lượng doanh nghiệp, quy mô vốn Nhà nước tại các TCTD, doanh nghiệp được giao cho NHNN quản lý, giám sát hoặc được giao làm đại diện chủ sở hữu là rất lớn (12 TCTD, doanh nghiệp [1] với hơn 128 ngàn tỷ đồng, bằng khoảng 30% vốn nhà nước đầu tư tại khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư của nhà nước tại 131 doanh nghiệp nhà nước và 175 doanh nghiệp có vốn nhà nước với tổng số vốn điều lệ khoảng hơn 300.000 tỷ đồng, chưa bao gồm các TCTD). 
 
Theo Bản Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến 2025, định hướng đến 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018, Thủ tướng Chính phủ đã đặt ra yêu cầu: “Xây dựng và ban hành cơ chế phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng và vai trò đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các TCTD, và doanh nghiệp có vốn nhà nước do NHNN làm đại diện chủ sở hữu” trong phần giải pháp để “Tăng cường năng lực thể chế, nâng cao vị thế, tính tự chủ và trách nhiệm giải trình của Ngân hàng Nhà nước”. Do đó, một cơ chế quản lý, giám sát đảm bảo hiệu quả, an toàn và chuyên nghiệp là vấn đề cần tính đến. 
 
Hiện nay, NHNN đang áp dụng mô hình phân tán để tổ chức, phân công nhiệm vụ cho các đơn vị chức năng thuộc NHNN tham mưu cho Thống đốc NHNN thực hiện nhiệm vụ này (Quyết định số 678/QĐ-NHNN ngày 12/4/2017 ban hành Quy chế về Người đại diện chủ sở hữu trực tiếp, Người đại diện phần vốn Nhà nước tại TCTD, tổ chức tài chính và doanh nghiệp do NHNN quản lý), cụ thể:
 
- Cơ quan Thanh tra Giám sát Ngân hàng (CQTTGSNH) được giao làm đơn vị đầu mối làm báo cáo tổng thể về việc thực hiện quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu, đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước tại các TCTD, tổ chức tài chính và doanh nghiệp do NHNN quản lý, chịu trách nhiệm tham mưu cho Thống đốc NHNN về hoạt động, quản lý, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp (không bao gồm Nhà máy In tiền Quốc gia và Napas, do Vụ Tài chính Kế toán (TCKT) quản lý).
 
- Vụ TCKT tham mưu cho Thống đốc về vấn đề sử dụng nguồn lực tài chính (không bao gồm các dự án công nghệ thông tin (CNTT) do Cục CNTT thực hiện). 
 
- Vụ Tổ chức cán bộ (TCCB) tham mưu cho Thống đốc về công tác tổ chức, nhân sự, lao động, tiền lương. 
 
Với mô hình này, Thống đốc NHNN đã giao nhiệm vụ cho các đơn vị theo từng công việc cụ thể. Theo đó, việc phân công tham mưu cho Thống đốc NHNN thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại TCTD, doanh nghiệp vừa được chia theo nhóm công việc: (i) Về tổ chức, nhân sự, lao động, tiền lương; (ii) Về hoạt động, quản lý giám sát hoạt động, (iii) Về sử dụng các nguồn lực tài chính. Đồng thời, căn cứ theo chuyên môn, nghiệp vụ và chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị, Thống đốc NHNN tách riêng nhiệm vụ quản lý, giám sát đối với Nhà máy In tiền Quốc gia và Napas giao Vụ TCKT làm đầu mối, xử lý. Nhiệm vụ đầu mối tổng thể về thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại TCTD, doanh nghiệp của NHNN được giao CQTTGSNH.
 
Đánh giá sơ bộ cho thấy, thực tế công tác tổ chức thực hiện quyền, trách nhiệm của NHNN với tư cách là cơ quan đại diện vốn chủ sở hữu nhà nước hiện nay còn phân tán, thiếu tính chuyên nghiệp và chưa chuyên môn hóa. NHNN vẫn chưa tách bạch chức năng quản lý nhà nước với chức năng chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp của NHNN. Việc phối hợp giữa các đơn vị chưa được chặt chẽ, hiệu quả, quy trình xử lý công việc mất nhiều thời gian xin ý kiến qua lại giữa các đơn vị. 
 
Qua nghiên cứu thực tiễn tại các Bộ, ban ngành [2] và các khuyến nghị của các tổ chức quốc tế, chúng tôi nhận thấy rằng, NHNN có thể cân nhắc tổ chức công tác này theo mô hình tập trung, theo hướng thành lập 01 đơn vị trực thuộc Thống đốc NHNN (hoặc kiện toàn từ một đơn vị hiện có) để chuyên trách quản lý vốn nhà nước tại các TCTD, doanh nghiệp do NHNN quản lý. Với phương án này, NHNN cần báo cáo cấp có thẩm quyền (Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Bộ Chính trị) về việc thành lập thêm 01 đơn vị cấp Vụ/Cục/Ban trực thuộc Thống đốc NHNN để đảm đương toàn bộ các công việc liên quan đến nhiệm vụ đại diện vốn chủ sở hữu nhà nước tại các TCTD, doanh nghiệp trực thuộc NHNN. Phương án này giống với mô hình tổ chức thực hiện quyền, nhiệm vụ của Cơ quan đại diện chủ sở hữu tại một số Bộ, ngành có quy mô vốn được giao quản lý lớn, trọng yếu như: Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài chính, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Xây dựng.
 
Theo phương án này, Thống đốc NHNN sẽ chuyển các nhiệm vụ đang giao cho các đơn vị khác nhau (bao gồm: Vụ TCKT, Vụ TCCB, Cục CNTT và CQTTGSNH) về đơn vị mới này. Như vậy, từ nhiều đầu mối tham mưu như hiện nay, NHNN sẽ chỉ giao cho 01 đơn vị đầu mối thực hiện nhiệm vụ quản lý vốn nhà nước tại TCTD, doanh nghiệp do NHNN được giao quản lý. 
 
Về nhân sự và cán bộ: Nhân sự và cán bộ cho đơn vị mới sẽ được điều chuyển từ các đơn vị trong nội bộ NHNN. Đảm bảo, việc thành lập mới đơn vị này không làm tăng biên chế của NHNN. Để dễ hình dùng hơn, mô hình tổ chức này được mô tả bằng hình 1. 
Điểm quan trọng nhất của mô hình này là NHNN sẽ phân định được rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng và vai trò đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các TCTD, và doanh nghiệp có vốn nhà nước do NHNN làm đại diện chủ sở hữu theo đúng yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp do NHNN quản lý. Do vậy, tính hiệu lực, hiệu quả trong công tác này sẽ được nâng cao hơn. Mặc dù vậy, việc triển khai phương án này cũng có hạn chế nhất định trong bối cảnh Chính phủ đang chỉ đạo thực hiện rà soát, sắp xếp, tinh gọn đầu mối bên trong các cơ quan, bộ ngành, không thành lập thêm các tổ chức mới, trừ các trường hợp đặc biệt. Tuy nhiên, NHNN hoàn toàn có đầy đủ cơ sở lập luận thuyết phục để trình cấp có thẩm quyền xem xét hoặc NHNN có thể cân nhắc thêm phương án kiện toàn, sắp xếp một tổ chức hiện có để đảm nhiệm thực hiện nhiệm vụ tham mưu cho Thống đốc thực hiện quyền, trách nhiệm đại diện vốn chủ sở hữu nhà nước tại các TCTD, doanh nghiệp đặc thù do NHNN quản lý. 
_____________
 
[1] Gồm: 08 TCTD (Agribank, BIDV, VCB, Vietinbank, Co-opbank, Oceanbank, GPBank, CB), 01 tổ chức tài chính (BHTG), 03 doanh nghiệp (VAMC, Nhà máy In tiền Quốc gia và Napas). 
 
[2] Chúng tôi đã nghiên cứu chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của 20/22 bộ, ban ngành trong Chính phủ liên quan đến nhiệm vụ này ở thời điểm tháng 9/2018. Theo đó, có 13 bộ, ngành trong tổng số 22 bộ ngành vẫn đang được Chính phủ giao nhiệm vụ thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp được giao quản lý, bao gồm: Bộ Công An, Bộ Công thương, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên Môi trường, Bộ Thông tin truyền thông, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Bộ Xây dựng, Bộ Y tế và NHNN. 
 
* Đa số các bộ, ngành có chức năng, nhiệm vụ quản lý vốn nhà nước này (13 bộ ngành), thực hiện giao nhiệm vụ cho 01 đầu mối xử lý các nội dung công việc liên quan đến thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu tại các doanh nghiệp được giao quản lý. Riêng Bộ Công thương, trước đây, việc thực hiện nhiệm vụ này được phân tán cho nhiều Vụ, Cục theo khía cạnh hoạt động chuyên môn của doanh nghiệp (ví dụ: Vụ Công nghiệp nặng chuyên quản các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp nặng, Cục Điện lực quản lý các doanh nghiệp điện …). Trong số 13 bộ ngành nêu trên, có 06 bộ, ngành được thành lập 01 đơn vị đầu mối chuyên môn để thực hiện chức năng quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (Vụ/Cục Quản lý doanh nghiệp/Đổi mới doanh nghiệp/Tài chính doanh nghiệp); 06 bộ, ngành còn lại giao nhiệm vụ quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp cho Vụ/Cục Kế hoạch - Tài chính thực hiện. Đối với các địa phương, công tác tổ chức thực hiện công tác quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, tổ chức thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp được giao cho Sở Tài chính. Theo đó, hầu hết các tỉnh, thành phố có thiết kế Phòng Quản lý doanh nghiệp/Tài chính doanh nghiệp trực thuộc Sở Tài chính để làm đầu mối, thống nhất quản lý.

TS. Nguyễn Tuấn Anh 
và nhóm nghiên cứu

Nguồn: TCNH số 1/2019

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
25/04/2024 438 lượt xem
Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 được Quốc hội thông qua ngày 18/01/2024. Nội dung Luật có nhiều điểm mới tích cực, được đánh giá sẽ góp phần đảm bảo hoạt động tài chính của các TCTD phát triển lành mạnh, ổn định.
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
22/04/2024 442 lượt xem
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động ngân hàng cũng không nằm ngoài sự chuyển đổi đó. Tại Việt Nam, những năm gần đây, ngành Ngân hàng luôn là một trong những ngành có tỉ lệ chuyển đổi số nhanh nhất.
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
17/04/2024 767 lượt xem
Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật để thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư trong nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế, hình ảnh của nước ta trên trường quốc tế.
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính -  Một số khuyến nghị cho Việt Nam
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính - Một số khuyến nghị cho Việt Nam
12/04/2024 1.247 lượt xem
Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia, góp phần thúc đẩy và mở rộng khả năng tiếp cận tài chính của dân số, qua đó khuyến khích tiết kiệm và đầu tư đối với hộ gia đình và doanh nghiệp, tạo cơ hội phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ, mở rộng khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm và thu nhập, góp phần hạn chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính.
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
16/03/2024 3.806 lượt xem
Năm 2024, kinh tế thế giới dự báo tiếp tục khó khăn dưới tác động của điều kiện tài chính thắt chặt, mặt bằng lãi suất còn cao, xung đột địa chính trị, rủi ro tài chính gia tăng, lạm phát có dấu hiệu chậm lại nhưng vẫn cao…; ở trong nước, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức do bối cảnh cầu thế giới, thương mại quốc tế chậm phục hồi, bảo hộ thương mại gia tăng; sản xuất, kinh doanh tiếp tục khó khăn, mức độ hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn tương đối thấp; những khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản vẫn chưa được xử lý căn cơ, đòi hỏi các cấp, bộ, ngành Trung ương và địa phương tiếp tục triển khai nhiều giải pháp tổng thể hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
15/03/2024 3.201 lượt xem
Ngày 07/11/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước, có hiệu lực thi hành từ ngày 22/12/2023.
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
14/03/2024 6.836 lượt xem
Giai đoạn từ năm 2022 đến nay, trước bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) liên tục tăng lãi suất, NHNN đã điều hành tỷ giá tương đối ổn định, đặc biệt là tỷ giá với các ngoại tệ như Đô la Mỹ, Euro và các ngoại tệ khác tại các quốc gia có quan hệ giao thương đáng kể với Việt Nam nhằm duy trì ổn định vĩ mô trong nước, hỗ trợ đầu tư, sản xuất phát triển.
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
13/03/2024 3.237 lượt xem
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân đối với Dự thảo Nghị định quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng (sau đây gọi tắt là Dự thảo Nghị định).
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
06/03/2024 3.305 lượt xem
Một trong những sứ mệnh của chuyển đổi số là phổ cập, cá nhân hóa dịch vụ số như giáo dục, y tế, ngân hàng để hướng tới người dân. Ngành Ngân hàng luôn phấn đấu tạo điều kiện thuận lợi cho người dân sử dụng dịch vụ trên môi trường điện tử, trong đó có hướng đến phổ cập tài chính tới vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
05/03/2024 9.322 lượt xem
Ngày 18/01/2024, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 với 15 chương, 210 điều. Luật Các TCTD năm 2024 đã bám sát quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước; khắc phục các vướng mắc, bất cập hiện tại; tham khảo thông lệ, kinh nghiệm quốc tế và phù hợp chiến lược phát triển ngành Ngân hàng. Xuất phát từ đó, bài viết tập trung làm rõ những điểm mới, nổi bật của Luật này.
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/02/2024 3.278 lượt xem
Trải qua hơn 10 năm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, công tác thống kê tiền tệ phục vụ điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có nhiều bước tiến đáng kể.
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
24/02/2024 4.504 lượt xem
Năm 2023 vừa qua đã chứng kiến những biến động mạnh mẽ trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) trên thế giới, nổi bật là việc các ngân hàng trung ương (NHTW) liên tục tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát.
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
13/02/2024 3.233 lượt xem
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các nước đã thừa nhận sự cần thiết của chính sách an toàn vĩ mô (ATVM) trong ổn định tài chính và đặt chính sách ATVM vào vị trí trung tâm của sự tương tác giữa các chính sách kinh tế vĩ mô với chính sách an toàn vi mô.
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
11/02/2024 4.163 lượt xem
Nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2023 được triển khai trong bối cảnh tình hình thế giới phát sinh nhiều biến động, diễn biến phức tạp, khó dự báo. Căng thẳng địa chính trị, tranh chấp giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, xung đột giữa Nga - Ukraine và Israel - Hamas diễn biến bất ngờ, lạm phát và giá nhiên liệu tăng cao khiến đà phục hồi của kinh tế thế giới chậm lại.
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
07/02/2024 3.601 lượt xem
Thời gian qua, tín dụng tiêu dùng phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 20%/năm, từng bước góp phần giúp người dân, đặc biệt là những người yếu thế tiếp cận được các dòng vốn chính thức; hạn chế tình trạng tín dụng đen.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?