Nỗ lực xây dựng thành công cơ sở dữ liệu lớn về người dân
Ngày 06/01/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 06/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Đề án xác định 7 quan điểm chỉ đạo lớn, mục tiêu chung và các mục tiêu cụ thể cùng với 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp thực hiện với lộ trình của từng nhiệm vụ trong năm 2022 và giai đoạn 2023 - 2025, định hướng đến năm 2030. Kèm theo đó là danh mục 25 thủ tục hành chính thiết yếu ưu tiên, tích hợp chia sẻ dữ liệu dân cư phục vụ giải quyết thủ tục hành chính và danh mục 52 nhiệm vụ cụ thể thực hiện với phân công trách nhiệm và các mốc thời gian hoàn thành rất cụ thể để thực hiện Đề án.
Mục tiêu tổng thể của Đề án là ứng dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, hệ thống định danh và xác thực điện tử, thẻ căn cước công dân gắn chíp điện tử trong công cuộc chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 để phục vụ 5 nhóm tiện ích như sau: (1) Phục vụ giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến; (2) Phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; (3) Phục vụ công dân số; (4) Hoàn thiện hệ sinh thái phục vụ kết nối, khai thác, bổ sung làm giàu dữ liệu dân cư và (5) Phục vụ chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo các cấp.
Với nhóm tiện ích phục vụ giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến, năm 2022, hoàn thành tích hợp, cung cấp dịch vụ xác thực thông tin về số Chứng minh nhân dân (9 số) với Căn cước công dân trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia để 100% tài khoản định danh điện tử của cá nhân đã được tạo lập bởi Cổng Dịch vụ công Quốc gia, cổng Dịch vụ công cấp bộ, cấp tỉnh thực hiện được việc xác thực với danh tính điện tử do Bộ Công an cung cấp.
Hoàn thành việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và Cơ sở dữ liệu thuế trong quý I năm 2022 phục vụ xác thực thông tin về người nộp thuế trong giải quyết thủ tục hành chính lĩnh vực thuế, giúp 100% người nộp thuế không phải khai báo lại các thông tin thay đổi đã có trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Bảo đảm từng bước thay thế các giấy tờ cá nhân trên cơ sở tích hợp, xác thực các thông tin, giấy tờ cá nhân vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để chỉ cần sử dụng thẻ Căn cước công dân, ứng dụng Định danh điện tử quốc gia (VNEID), trong đó, tập trung thực hiện ngay đối với một số giấy tờ như: Bảo hiểm y tế, bằng lái xe, giấy phép lái xe, mã số chứng chỉ hoặc giấy phép hành nghề, tiêm chủng, y tế, giáo dục, thẻ cán bộ, công chức, viên chức...
Giai đoạn 2023 - 2025, 100% người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 được định danh và xác thực điện tử thông suốt, hợp nhất trên tất cả các hệ thống thông tin của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương.
100% người dân khi thực hiện thủ tục hành chính tại Bộ phận một cửa các cấp được định danh, xác thực điện tử trên hệ thống định danh và xác thực điện tử của Bộ Công an đã kết nối, tích hợp với Cổng Dịch vụ công Quốc gia; không phải cung cấp lại các thông tin, giấy tờ về dân cư đã có trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư...
Với nhóm tiện ích phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, giai đoạn năm 2022 - 2023, nâng cấp, hoàn thiện hệ thống định danh và xác thực điện tử; nghiên cứu mở rộng việc ứng dụng hệ thống trong các giao dịch điện tử phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tích hợp, phát triển các ứng dụng trên nền tảng hệ thống định danh và xác thực điện tử với các ứng dụng cốt lõi như: Ví điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt, chứng khoán, điện, nước... lên ứng dụng VNEID, mã QR của thẻ Căn cước công dân gắn chip điện tử...
Với nhóm tiện ích phục vụ công dân số, năm 2022, bảo đảm xác thực 100% các thông tin thiết yếu, quan trọng trên ứng dụng VNEID hoặc qua thẻ Căn cước công dân gắn chip điện tử như: Thông tin tiêm chủng, xét nghiệm, giấy phép lái xe, đăng ký xe... từng bước thay thế các giấy tờ của công dân trong một số các giao dịch theo quy định pháp luật; cung cấp các dịch vụ công, dịch vụ thương mại phục vụ tiện ích số của công dân trên ứng dụng VNEID như: Dịch vụ cư trú, căn cước công dân, thương mại điện tử, thanh toán điện tử và các dịch vụ khác;...
Ngành Ngân hàng thúc đẩy chuyển đổi số vì lợi ích quốc gia và quyền lợi của người dân
Cụ thể hóa nghị quyết, chủ trương, chính sách tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết, quyết định về đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số quốc gia. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã đẩy mạnh chuyển đổi số, tích cực, khẩn trương triển khai các Cơ sở dữ liệu quốc gia, tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử.
Đối với ngành Ngân hàng, trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã sớm nghiên cứu, đánh giá kịp thời và ban hành nhiều chính sách định hướng quan trọng, tạo điều kiện cho các hoạt động đổi mới sáng tạo và thúc đẩy chuyển đổi số, khai thác, ứng dụng có hiệu quả các công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) trong hoạt động ngân hàng, cụ thể:
(i) Ban hành Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của Thống đốc NHNN), hướng tới mục tiêu phát triển các mô hình ngân hàng số, gia tăng tiện ích, trải nghiệm khách hàng và thực hiện mục tiêu tài chính toàn diện, phát triển bền vững trên cơ sở thúc đẩy ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến trong quản trị điều hành và cung ứng sản phẩm, dịch vụ theo hướng tự động hóa quy trình, tối ưu hóa hoạt động nghiệp vụ.
(ii) Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025 và ban hành Kế hoạch triển khai của NHNN, với mục tiêu tạo sự chuyển biến sâu rộng về TTKDTM trong nền kinh tế, thúc đẩy sử dụng các phương tiện, dịch vụ TTKDTM trở thành thói quen của người dân ở khu vực đô thị và từng bước phát triển, tạo thành thói quen ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ, giải pháp gắn với CMCN 4.0 để nâng cấp, phát triển cơ sở hạ tầng thanh toán, dịch vụ TTKDTM, đáp ứng tốt nhu cầu giao dịch thanh toán nhanh chóng, an toàn, thuận tiện của người dùng dịch vụ.
(iii) Ban hành Thông tư hướng dẫn mở tài khoản thanh toán của cá nhân bằng phương thức điện tử (eKYC), Thông tư hướng dẫn phát hành thẻ bằng phương thức điện tử, cho phép khách hàng áp dụng công nghệ để mở tài khoản thanh toán, mở thẻ ngân hàng từ xa mà không cần phải đến quầy giao dịch của ngân hàng; theo đó, các công nghệ, giải pháp mới như phân tích dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (ML), xác thực sinh trắc học... đã được áp dụng với hầu hết các ngân hàng triển khai eKYC.
(iv) Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định pháp lý về cung ứng dịch vụ Ví điện tử (hướng dẫn cụ thể điều kiện mở, sử dụng ví, việc sử dụng tài khoản đảm bảo thanh toán...) phù hợp với đòi hỏi của thực tế cuộc sống, đặc biệt là đề ra biện pháp quản lý phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ trong ứng dụng hoạt động nghiệp vụ, sản phẩm dịch vụ thanh toán.
(v) Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ (Mobile-Money) nhằm tăng cường việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính, đặc biệt tại khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo của Việt Nam... Nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa NHNN, Bộ Thông tin và Truyền thông và Bộ Công an trong công tác thẩm định, xử lý hồ sơ đề nghị triển khai thí điểm của các doanh nghiệp viễn thông, đến cuối tháng 11/2021, NHNN đã có văn bản chấp thuận triển khai thí điểm dịch vụ Mobile-Money cho Tổng Công ty Truyền thông (VNPT-Media), Tổng Công ty Viễn thông MobiFone, Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội (Viettel). Đến nay, 03 doanh nghiệp được chấp thuận thí điểm dịch vụ Mobile-Money đã và đang triển khai dịch vụ ra thị trường.
(vi) Xây dựng, triển khai các giải pháp tài chính nhằm hỗ trợ, thúc đẩy TTKDTM, như: Ban hành chính sách giảm phí giao dịch thanh toán qua hệ thống Thanh toán điện tử liên ngân hàng (TTĐTLNH); chỉ đạo áp dụng miễn phí chuyển mạch đối với giao dịch thanh toán trực tuyến khi thực hiện thủ tục hành chính trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia; chỉ đạo các tổ chức tín dụng giảm phí; miễn phí dịch vụ thanh toán cho các đối tượng nhận hỗ trợ của Chính phủ, miễn phí chuyển tiền ủng hộ phòng, chống dịch Covid-19; nhiều tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã triển khai các gói sản phẩm dịch vụ có ưu đãi về phí cho khách hàng như: Áp dụng chính sách “zero fee”; khoảng 80% giao dịch chuyển tiền trực tuyến qua tài khoản thanh toán được miễn phí.
Ngoài ra, NHNN cũng đã nghiên cứu, xây dựng trình Chính phủ một số văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách trong lĩnh vực thanh toán nhằm tạo lập khuôn khổ pháp lý đầy đủ, đồng bộ; đáp ứng yêu cầu đối với các mô hình kinh doanh và sản phẩm dịch vụ mới trên nền tảng công nghệ thanh toán mới, số hóa hoạt động thanh toán số, tạo thuận lợi cho việc chuyển đổi số trong hoạt động thanh toán; đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán, như: Hoàn thiện, trình Chính phủ ban hành Nghị định mới về TTKDTM; hoàn thiện, ban hành Chiến lược phát triển các hệ thống thanh toán đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Một số giải pháp triển khai thực hiện Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia
Để triển khai thực hiện Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030, cần hoàn thiện chính sách, pháp luật về phát triển, cung cấp ứng dụng, dịch vụ số liên quan đến thông tin dân cư; phục vụ giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công trực tuyến; hoàn thiện hệ sinh thái phục vụ kết nối, khai thác, bổ sung làm giàu dữ liệu dân cư, trong đó, cần tập trung triển khai một số giải pháp sau:
Thứ nhất, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương… khẩn trương xây dựng chương trình, kế hoạch, lộ trình về thời gian, nhân lực triển khai thực hiện Đề án gắn với chương trình chuyển đổi số quốc gia. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, cần tăng cường đôn đốc, kiểm tra trực tiếp tại cơ sở, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc phát sinh; đẩy mạnh tuyên truyền tạo sự đồng thuận tham gia của các tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp và người dân.
Thứ hai, các bộ, ngành, địa phương khẩn trương đẩy mạnh các dịch vụ công trực tuyến, đặc biệt là 25 dịch vụ công thiết yếu để phục vụ người dân và doanh nghiệp đã được xác định trong Đề án; đẩy mạnh chuẩn bị nền tảng, kết nối Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với các cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành, nhất là các cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp, thuế, hải quan, ngân hàng, giấy phép lái xe, bảo hiểm, y tế, giáo dục...; bảo đảm dữ liệu dân cư chính xác và luôn được bổ sung, cập nhật thường xuyên; duy trì liên tục tính kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu; bảo đảm an ninh, an toàn, bảo vệ dữ liệu cá nhân theo đúng quy định của pháp luật; xây dựng được cơ sở dữ liệu lớn về người dân, thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, xây dựng kinh tế số, Chính phủ số, công dân số.
Thứ ba, để triển khai hiệu quả Đề án thì điều kiện hạ tầng kỹ thuật và nguồn nhân lực công nghệ là rất quan trọng. Do vậy, cần quan tâm phát triển hạ tầng kỹ thuật và nguồn nhân lực công nghệ nói chung, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hiện nay để chủ động triển khai các công nghệ hiện đại từ CMCN 4.0, hướng đến làm chủ công nghệ, đón đầu xu hướng phát triển.
Anh Thư (Hà Nội)