Ngày 16/5/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, với mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp hoạt động, đồng thời Chính phủ đã ban hành nhiều giải pháp nhằm hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, đặc biệt là đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV). Song song với chủ trương của Chính phủ, trên cơ sở chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), các ngân hàng thương mại (NHTM) đã đưa ra nhiều chương trình ưu đãi nhằm hỗ trợ các DNNVV có thể tiếp cận nguồn vốn. Tuy nhiên, việc ưu đãi giá chỉ phần nào tháo gỡ giảm chi phí sản xuất kinh doanh cho DNNVV nhưng chưa giải quyết được căn nguyên của vấn đề khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn mà DNNVV gặp phải.
Bài viết đưa ra các đánh giá thực trạng và giải pháp đối với bản thân DNNVV, đối với hệ thống ngân hàng và kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan, trong đó tài trợ chuỗi cung ứng trên nền tảng công nghệ (Supply Chain Management E-Platform) đang được Vietcombank cùng các đơn vị tư vấn có uy tín trên thị trường nghiên cứu, phối hợp triển khai nhằm đưa ra phương thức cho vay với việc kết hợp giữa bên mua và bên bán trên nền tảng ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm tháo gỡ khó khăn trong việc cấp tín dụng trên cơ sở tài sản bảo đảm, tạo thêm nguồn lực cho DNNVV vươn ra biển lớn.
1. Vai trò của DNNVV đối với nền kinh tế Việt Nam và khung chính sách của Chính phủ hỗ trợ hoạt động đối với DNNVV
Tính đến thời điểm 31/12/2018, cả nước có 714.755 doanh nghiệp đang hoạt động, tăng 9,2% so với năm 2017. Giai đoạn 2016 - 2018, số lượng doanh nghiệp mới tăng trưởng mạnh, trung bình mỗi năm có gần 123 nghìn doanh nghiệp gia nhập thị trường với số vốn đăng ký khoảng 1,2 triệu tỷ đồng, tăng 49,3% về số doanh nghiệp và 155,8% về số vốn đăng ký so với giai đoạn 03 năm trước đó[1]. Trong 06 tháng đầu năm 2019, có thêm gần 67 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký là 860,2 nghìn tỷ đồng, tăng 3,8% về số doanh nghiệp và tăng 32,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2018[2].
Lực lượng DNNVV chiếm khoảng 98,1% tổng số doanh nghiệp trên cả nước, đóng góp khoảng 45% GDP, 31% vào tổng thu ngân sách nhà nước và thu hút hơn 5 triệu việc làm[3]. DNNVV được xem như lực lượng sản xuất quan trọng của nền kinh tế, tạo ra của cải vật chất và công ăn việc làm cho xã hội. Sự phát triển của DNNVV cũng là nền tảng để hình thành những tập đoàn tư nhân của đất nước.
Ngày 12/06/2017, Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14 ban hành nhằm tạo khuôn khổ pháp lý hỗ trợ hoạt động của DNNVV, tập trung vào 03 nhóm đối tượng chính là DNNVV chuyển đổi từ hộ kinh doanh, DNNVV khởi nghiệp sáng tạo và DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị với các hình thức hỗ trợ: (1) Hỗ trợ tiếp cận tín dụng; (2) Hỗ trợ thuế, kế toán; (3) Hỗ trợ mặt bằng sản xuất; (4) Hỗ trợ công nghệ, hỗ trợ cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung; (5) Hỗ trợ mở rộng thị trường; (6) Hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý; (7) Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực.
2. Tiếp cận vốn của các DNNVV trong thời gian qua
Với quy mô doanh nghiệp còn hạn chế, về cơ bản, các DNNVV khó có khả năng tiếp cận nguồn vốn từ thị trường chứng khoán, phát hành trái phiếu trong nước và quốc tế, vay vốn nước ngoài, quỹ đầu tư,... mà vẫn tập trung chủ yếu ở nguồn vốn vay của các NHTM trên cơ sở doanh nghiệp tự tiếp cận hoặc thông qua bảo lãnh của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV và vay vốn thông qua Quỹ Phát triển DNNVV.
2.1. Các chương trình triển khai của NHNN và các NHTM
Trên cơ sở chỉ đạo và định hướng chung của Chính phủ, NHNN đã triển khai một loạt các giải pháp tạo điều kiện cho DNNVV tiếp cận vốn ngân hàng để duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh bao gồm quy định trần lãi suất đối với các lĩnh vực ưu tiên phát triển, trong đó có DNNVV được hưởng lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND thấp hơn 1% - 2%/năm so với các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thông thường[4], ban hành các chương trình tín dụng đặc thù đối với một số ngành/lĩnh vực như cho vay phát triển sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết, nông nghiệp sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao[5]; cho vay trên cơ sở bảo lãnh của các tổ chức bảo lãnh [6] cho các DNNVV sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển. NHNN cũng đã ban hành các thông tư hướng dẫn TCTD phối hợp với Ngân hàng Phát triển, Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương trong cho vay DNNVV có bảo lãnh của các tổ chức này nhằm gia tăng cơ hội cấp tín dụng.
Bên cạnh đó, NHNN cũng đã yêu cầu các TCTD đa dạng hóa các chương trình sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, đơn giản hóa thủ tục vay vốn, chuẩn hóa quy trình thu thập khai thác thông tin khách hàng để qua đó nâng cao hiệu quả thẩm định, đánh giá tín nhiệm và tăng cường cho vay không có tài sản bảo đảm, triển khai các chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp nhằm tháo gỡ khó khăn của DNNVV trong quan hệ tín dụng với ngân hàng. Hưởng ứng chủ trương NHNN, các TCTD trong nước cũng đã rà soát lại quy trình sản phẩm, đồng thời ban hành nhiều chương trình tín dụng ưu đãi ngắn hạn, trung dài hạn trên quy mô lớn hướng đến đối tượng là các DNNVV. Tính đến 31/12/2018, tín dụng đối với lĩnh vực DNNVV đạt trên 1,3 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 16% so với cuối năm 2017, cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế. Đến cuối tháng 5/2019, tín dụng đối với lĩnh vực DNNVV đạt hơn 1,4 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 6% so với cuối năm 2018[7].
Mặc dù đã có kết quả khá tích cực trong thời gian qua, nhưng vốn tín dụng cho vay DNNVV của các TCTD mới chỉ chiếm hơn 18% tổng tín dụng nền kinh tế so với đóng góp của DNNVV chiếm khoảng 45% GDP. Theo số liệu của Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia (CIC) tháng 06/2019, có đến 73,4% doanh nghiệp chưa tiếp cận tín dụng, trong đó riêng tại TP. Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế của đất nước, cũng có đến 44,5% doanh nghiệp chưa tiếp cận tín dụng.
2.2. Bảo lãnh vay vốn thông qua Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV
Quỹ Bảo lãnh tín dụng là quỹ tài chính ngoài ngân sách do UBND tỉnh thành lập, với vai trò cấp bảo lãnh tín dụng cho DNNVV, hoạt động độc lập theo mô hình Công ty TNHH MTV do Nhà nước nắm giữ 100% vốn.
Các DNNVV được xem xét cấp bảo lãnh tối đa bằng 100% giá trị khoản vay (bao gồm cả vốn lưu động và vốn trung, dài hạn) tại tổ chức cho vay với điều kiện: doanh nghiệp có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, có khả năng hoàn trả vốn vay; dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh được Quỹ bảo lãnh tín dụng thẩm định và quyết định bảo lãnh; có phương án về chủ sở hữu tối thiểu 20% tham gia dự án đầu tư, phương án kinh doanh; không có các khoản nợ thuế từ 01 năm trở lên. Tính đến cuối tháng 5/2019, dư nợ cho vay DNNVV trên cơ sở bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng phát sinh tại 11 địa phương đạt khoảng 500 tỷ đồng, giảm 22% so với dư nợ thời điểm tháng 12/2018.
2.3. Quỹ phát triển DNNVV
Quỹ phát triển DNNVV thành lập theo mô hình Công ty TNHH MTV do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, với vốn tối thiểu là 2.000 tỷ đồng. Đối tượng quan tâm của Quỹ là DNNVV khởi nghiệp sáng tạo và DNNVV tham gia cụm liên kết ngành được vay vốn tối đa 80% tổng vốn đầu tư để thực hiện dự án, phương án sản xuất kinh doanh với lãi suất cho vay trực tiếp bằng 80% mức thấp nhất lãi suất cho vay thương mại, thời hạn cho vay không quá 7 năm[8].
Quỹ chủ yếu hoạt động thông qua hình thức ủy thác vốn cho Ngân hàng Phát triển và các NHTM đáp ứng điều kiện hoặc cho vay trực tiếp. Tính đến tháng 12/2018, dư nợ ủy thác cho vay DNNVV đạt khoảng 90 tỷ đồng, số tiền cam kết ủy thác cho vay đạt khoảng 149,8 tỷ đồng[9]
Như vậy, có thể thấy, các kênh huy động vốn dành cho phát triển DNNVV hiện nay vẫn còn rất hạn chế về số lượng cũng như quy mô.
3. Nguyên nhân khiến các DNNVV gặp khó khăn trong tiếp cận vốn
3.1. Về phía doanh nghiệp
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến DNNVV gặp nhiều khó khăn về vay vốn, trong đó tập trung ở các nhóm chủ yếu như sau:
- Về năng lực hoạt động, DNNVV phần lớn đều có quy mô nhỏ, năng lực cạnh tranh trong nước và ngoài nước còn yếu, công nghệ lạc hậu, thiếu kinh nghiệm quản lý, nguồn nhân lực thiếu kỹ năng và kinh nghiệm, sức chịu đựng rủi ro thấp, khả năng chống đỡ kém trước biến động của kinh tế vĩ mô, các doanh nghiệp chưa có sự liên kết với nhau và liên kết với các doanh nghiệp lớn để tạo nên chuỗi giá trị cạnh tranh tầm khu vực.
- Đa số các DNNVV có cách thức quản lý, quản trị mang tính tư nhân gia đình, chưa có tầm nhìn, chiến lược kinh doanh dài hạn. Năng lực về quản trị hạn chế cũng là nguyên nhân dẫn đến DNNVV gặp khó khăn trong việc tìm kiếm, xây dựng phương án kinh doanh, cơ hội đầu tư khả thi, thiếu hiểu biết về các quy định khi tiếp cận các nguồn vốn vay.
- Về tài sản bảo đảm, bản thân DNNVV đã tiềm ẩn khá nhiều rủi ro do tài sản của doanh nghiệp có giá trị thấp, dòng tiền không dồi dào, lịch sử quan hệ tín dụng và xếp hạng tín dụng với ngân hàng chưa cao. Do vậy, bên cạnh việc thẩm định các phương án kinh doanh, các ngân hàng sẽ có xu hướng yêu cầu tài sản bảo đảm trong khi do năng lực tài chính hạn chế, các doanh nghiệp lại không đủ tài sản bảo đảm để thế chấp cho ngân hàng.
- Về tính minh bạch của số liệu kế toán, thông tin tài chính kế toán chưa theo chuẩn mực, thông tin chưa đảm bảo minh bạch do các DNNVV chưa coi trọng việc xây dựng hệ thống số liệu này, báo cáo tài chính phần lớn không có kiểm toán, tính chính xác còn hạn chế.
Các TCTD đã có nhiều chương trình tín dụng ưu đãi ngắn hạn, trung và dài hạn
trên quy mô lớn hướng đến đối tượng là DNNVV
3.2. Về phía hệ thống ngân hàng
Trong quá trình cho vay DNNVV, ngân hàng gặp nhiều khó khăn do đặc thù các DNNVV là các doanh nghiệp có thời gian thành lập hoặc vòng đời kinh doanh ngắn, nên thiếu tính ổn định trong hoạt động kinh doanh cũng như chưa minh bạch về thông tin cung cấp cho ngân hàng, khiến ngân hàng gặp khó khăn trong việc thẩm định hiệu quả của phương án vay vốn, đánh giá uy tín của khách hàng trong quan hệ tín dụng để đưa ra quyết định cho vay.
Ngoài ra, các DNNVV cũng gặp khó khăn trong việc đáp ứng các điều kiện liên quan đến tài sản bảo đảm theo quy định chung của hệ thống ngân hàng.
Trong điều kiện các DNNVV còn hạn chế về thông tin tiếp cận vay vốn ngân hàng cũng như năng lực để chuẩn bị hồ sơ vay vốn, quy trình và thủ tục vay vốn của các NHTM hiện tại còn khá phức tạp đối với DNNVV.
3.3. Về phía các cơ quan quản lý nhà nước
Bảo lãnh của các Quỹ bảo lãnh tín dụng đối với DNNVV có thể hủy ngang, theo đó, Quỹ có quyền từ chối một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ bảo lãnh, do đó, tiềm ẩn xảy ra tranh chấp với các TCTD cho vay. Ngoài ra, Quỹ phải chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn, do đó, để phòng tránh rủi ro, nhiều Quỹ vẫn yêu cầu tài sản bảo đảm không khác gì ngân hàng, nên vẫn không giải quyết được khó khăn nội tại của DNNVV, không khuyến khích được Quỹ phát hành bảo lãnh tín dụng phát triển. Hơn nữa, bảo lãnh cho vay là hoạt động có rủi ro nhưng hiện cũng chưa có hướng dẫn về việc trích lập dự phòng rủi ro trong hoạt động bảo lãnh áp dụng cho Quỹ bảo lãnh tín dụng.
Về Quỹ phát triển DNNVV, Nghị định số 39/2019/NĐ-CP ngày 10/5/2019 hướng đến định hướng Quỹ phát triển DNNVV cho vay trực tiếp thay vì việc cho vay gián tiếp thông qua các NHTM. Tuy nhiên, đến nay, vẫn chưa có thông tư hướng dẫn, hành lang pháp lý hỗ trợ việc thẩm định cho vay, nhận tài sản bảo đảm, trích lập dự phòng rủi ro. Với nguyên tắc hoạt động của Quỹ là phải bảo đảm an toàn vốn, tương tự như Quỹ Bảo lãnh tín dụng, vì vậy, yếu tố tài sản bảo đảm vẫn là một yếu tố quan trọng trong thẩm định và xét duyệt hồ sơ.
Bên cạnh những yếu tố liên quan đến vướng mắc trong quá trình hỗ trợ DNNVV của Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV hay Quỹ phát triển DNNVV, có thể thấy do hạn chế về nguồn vốn, nên quy mô của các quỹ còn khá nhỏ, dẫn đến số tiền bảo lãnh còn hạn chế so với nhu cầu của các DNNVV.
Ngoài ra, sự liên kết giữa các chính sách và các Bộ, ban, ngành trong việc phối hợp hỗ trợ, đào tạo nâng cao năng lực của khối DNNVV còn hạn chế, dẫn đến chưa phát huy được tổng thể nguồn lực của các bên liên quan nhằm hỗ trợ tốt hơn đối với DNNVV. Các chính sách hỗ trợ đối với DNNVV cũng đang nằm tản mạn ở nhiều cơ quan, bộ, ngành, địa phương mà chưa có một đầu mối thống nhất để tổng hợp cung cấp các thông tin về chính sách hỗ trợ cho DNNVV.
4. Giải pháp nâng cao khả năng tiếp cận vốn đối với các DNNVV
4.1. Đối với DNNVV
- Tăng cường đầu tư và ứng dụng công nghệ trong việc lập sổ sách kế toán, khai thuế và hải quan điện tử, giao dịch ngân hàng qua internet nhằm giảm chi phí giao dịch, kết nối và chia sẻ thông tin tài chính với các TCTD để dần minh bạch hóa thông tin tài chính, tạo lòng tin trên thị trường.
- Nâng cao chất lượng, trình độ quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro và quản lý tài chính.
- Tích cực tham gia các hiệp hội doanh nghiệp để tiếp cận thông tin về các chính sách, chương trình hỗ trợ đối với DNNVV của Chính phủ, Nhà nước cũng như các TCTD.
- Hoàn thiện quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn tham gia chuỗi cung ứng của các đối tác lớn đặc biệt là khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng mang tính toàn cầu.
4.2. Đối với các NHTM
Là trụ cột chính trong cung cấp vốn cho nền kinh tế nói chung và đối với DNNVV nói riêng, việc khơi thông nguồn vốn từ các NHTM đóng vai trò quan trọng nhằm giải quyết những khó khăn về vốn cho DNNVV. Một số giải pháp đối với các NHTM như sau:
- Tăng cường tìm kiếm và tiếp cận các nguồn vốn giá rẻ từ các chương trình, dự án ưu đãi của các tổ chức trong và ngoài nước để tài trợ cho các lĩnh vực kinh doanh đặc thù của các DNNVV được Chính phủ, Nhà nước chú trọng phát triển.
- Thiết kế các sản phẩm cho vay đặc thù phù hợp với đối tượng khách hàng là DNNVV theo từng nhóm ngành nghề để có các giải pháp đáp ứng yêu cầu khách hàng một cách linh hoạt.
- Cải tiến, đơn giản hóa quy trình cho vay, yêu cầu thông tin cung cấp phù hợp với thực tế và có tư vấn, hướng dẫn chi tiết để các DNNVV có thể dễ dàng nắm bắt và thực hiện. Tiến tới có thể áp dụng công nghệ về “Big Data” trong hoạt động ngân hàng sẽ giúp cho ngân hàng nắm bắt được thông tin về hoạt động kinh doanh, xu hướng sử dụng sản phẩm dịch vụ cũng như đánh giá về uy tín trong quan hệ tín dụng của khách hàng tốt hơn.
- Tổ chức các diễn đàn/hội thảo để kết nối DNNVV và ngân hàng nhằm cung cấp thông tin và tư vấn cho doanh nghiệp về sản phẩm, thủ tục vay vốn. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng có thể kết nối các DNNVV của ngân hàng với các đối tác lớn, từ đó, tăng cơ hội cho các DNNVV trở thành nhà cung ứng của các đối tác lớn này, đồng thời, giúp DNNVV dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn tài trợ từ các ngân hàng hơn.
- Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin liên kết với các DNNVV, triển khai và cung cấp các giải pháp quản lý dòng tiền (như quản lý khoản phải thu, khoản phải trả, sao kê, báo cáo dòng tiền,...) để cho phép các doanh nghiệp có thể tự giao dịch với ngân hàng thông qua hệ thống này một cách nhanh chóng và thuận tiện với chi phí thấp, giúp các DNNVV nâng cao năng lực quản lý tài chính, đáp ứng các điều kiện khi tham gia các chuỗi cung ứng của các đối tác lớn trong và ngoài nước.
- Tài trợ cho vay theo chuỗi cung ứng (Supply Chain Finance - SCF): dựa vào uy tín và mức độ rủi ro của một doanh nghiệp trung tâm (Anchor, là khách hàng lớn và truyền thống của ngân hàng), các DNNVV tham gia chương trình cho vay theo chuỗi cung ứng (với vai trò là nhà cung cấp/nhà phân phối đối với doanh nghiệp trung tâm) có cơ hội tiếp cận nguồn vốn ngân hàng thông qua các sản phẩm tài trợ bên bán khi DNNVV là nhà cung cấp hoặc sản phẩm tài trợ bên mua khi DNNVV là nhà phân phối của doanh nghiệp trung tâm mà không cần đáp ứng đầy đủ điều kiện thế chấp tài sản, thủ tục vay vốn như các sản phẩm tín dụng thông thường, đồng thời, với chi phí lãi suất thấp hơn do được dựa trên nền tảng xếp hạng tín dụng, uy tín của doanh nghiệp trung tâm. Đây được xem là giải pháp quan trọng trong thời điểm hiện nay để tháo gỡ cho các DNNVV.
Tại Vietcombank, bên cạnh các chương trình cho vay ưu đãi lãi suất đối với các DNNVV, thời gian qua, Vietcombank đã triển khai tài trợ chuỗi cung ứng là các nhà cung cấp và các nhà phân phối của nhiều đối tác lớn thuộc các nhóm ngành như thực phẩm, đồ uống, ô tô xe máy, bán lẻ, nông nghiệp,... Theo đó, các nhà cung cấp, nhà phân phối được các Anchors và Vietcombank lựa chọn sẽ được tiếp cận nguồn vốn thông qua chu trình quản lý trước và sau giao hàng (như tài trợ đơn hàng, bao thanh toán, tài trợ nhà phân phối, tài trợ nhà cung cấp) với quy trình thẩm định, thủ tục rút vốn được đơn giản hóa, tài sản bảo đảm là hàng tồn kho, khoản phải thu được xem xét linh hoạt trên cơ sở uy tín của các doanh nghiệp trung tâm với chi phí lãi vay cạnh tranh.
Việc tham gia trực tiếp vào toàn bộ chuỗi sản xuất, phân phối của doanh nghiệp cũng tạo điều kiện để ngân hàng kiểm soát được dòng tiền, giảm thiểu rủi ro trong việc cấp tín dụng đối với DNNVV, đồng thời, mở ra các cơ hội để cấp tín dụng và hợp tác với các DNNVV với quy mô và nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng ngày càng gia tăng.
Vietcombank định hướng tiếp tục phát triển mô hình tài trợ theo chuỗi trên cơ sở đầu tư mạnh vào hạ tầng công nghệ, tiến tới triển khai các Chương trình tài trợ chuỗi cung ứng một cách tự động, khép kín, hiện đại trên nền tảng công nghệ trực tuyến mà các ngân hàng lớn trên thế giới như Citibank, HSBC, JP Morgan Chase, ICICI Bank... đang áp dụng. Hệ thống SCF bao gồm hai cấu phần front-end (dành cho các Anchors và DNNVV là những nhà phân phối/nhà cung cấp có thể quản lý thông tin/chấp nhận hóa đơn/đơn hàng, đưa ra yêu cầu tài trợ trực tuyến và quản trị rủi ro bằng các bảng báo cáo bằng đồ họa sinh động) và back-end (dành cho ngân hàng để quản lý khoản tài trợ, chu trình giao dịch và quản trị rủi ro). Việc sử dụng công nghệ hóa đơn trực tuyến giúp ngân hàng có tầm nhìn sâu hơn vào tiềm năng trước mắt, theo dõi rõ hơn về các phương thức giao dịch và khả năng tài chính của một số doanh nghiệp, truy cập ngay lập tức dữ liệu giao dịch giữa các bên phục vụ việc thẩm định và đánh giá nhu cầu vốn lưu động. Việc cởi mở và minh bạch thông tin tài chính giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro trong quá trình cho vay.
Rõ ràng công nghệ SCF hiện đại tiết kiệm chi phí và thời gian giao dịch đối với các bên tham gia cũng như giúp các bên có sự kiểm soát tốt hơn quá trình sản xuất, cung ứng sản phẩm, giúp ngân hàng kiểm soát tốt hơn dòng tiền luân chuyển và từ đó, tăng cường khả năng đáp ứng vốn cho các DNNVV để tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng.
4.3. Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước
- Nhằm tháo gỡ khó khăn cho việc triển khai Quỹ bảo lãnh DNNVV, cơ chế bảo lãnh nên chuyển sang bảo lãnh không hủy ngang để giúp TCTD an tâm khi cấp tín dụng, đồng thời, có quy định cụ thể về việc trích lập dự phòng rủi ro, xây dựng quỹ dự phòng rủi ro. Ngoài ra, có thể kêu gọi vốn góp từ các TCTD và Quỹ nước ngoài để tăng vốn điều lệ cho Quỹ nhằm tạo nguồn lực cho Quỹ phát triển và hỗ trợ một cách thiết thực đối với DNNVV, trên cơ sở đó, quy mô của Quỹ sẽ càng được mở rộng. Tương tự như vậy, ngoài việc gia tăng quy mô cho Quỹ phát triển DNNVV, cần có một hướng dẫn cụ thể về cho vay và nhận tài sản bảo đảm, trích lập dự phòng rủi ro để Quỹ có thể triển khai theo định hướng chuyển từ cho vay ủy thác qua các NHTM sang cho vay trực tiếp.
- Các Bộ, ngành có liên quan theo từng ngành nghề kinh doanh, Hiệp hội DNNVV và NHNN cần có sự phối hợp để tổ chức các chương trình đào tạo chung cũng như các chương trình đào tạo riêng mang tính đặc thù cho từng ngành nghề để nâng cao năng lực chuyên môn, cung cấp thông tin thị trường vĩ mô cũng như các thông tin liên quan đến định hướng của Chính phủ, thông tin về các chương trình vay vốn, yêu cầu và cách thức để xây dựng hồ sơ tiếp cận vốn thông qua các kênh khác nhau. Bên cạnh đó, cần xây dựng Cổng thông tin quốc gia về hỗ trợ DNNVV để doanh nghiệp có thể dễ dàng tiếp cận thông tin liên quan đến các chương trình hỗ trợ.
- Trên cơ sở thông tin thu thập được từ các NHTM riêng lẻ, NHNN cần xây dựng hệ thống thông tin đánh giá về tín dụng đối với DNNVV đa dạng và có hướng dẫn thực hiện để hỗ trợ thêm công cụ cho các NHTM trong công tác đánh giá, thẩm định về uy tín, khả năng trả nợ của DNNVV, để từ đó, NHTM có thể mạnh dạn hơn trong công tác tín dụng đối với DNNVV.
Nhằm tạo hành lang pháp lý cho phương thức tài trợ chuỗi cung ứng trên nền tảng e-platform, cần tiếp tục hoàn thiện, hướng dẫn triển khai Luật giao dịch điện tử năm 2006 và Nghị định 130/2018/NĐ-CP ngày 27/09/2018 quy định chi tiết thi hành luật giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số.
[1] Theo Bộ Kế hoạch Đầu tư;
[2] Theo Tổng cục Thống kê;
[3] Theo Báo cáo Tổng Điều tra Kinh tế của Bộ Kế hoạch Đầu tư năm 2017;
[4] Theo Quyết định số 1425/QĐ-NHNN ngày 7/7/2017 của NHNN;
[5] Quyết định 813/QĐ-NHNN ngày 24/04/2017;
[6] Thông tư 01/2016/TT-NHNN ngày 04/02/2016;
[7] Theo Ngân hàng Nhà nước;
[8] Theo Ngân hàng Nhà nước;
[9] Theo Ngân hàng Nhà nước.
TS.Nghiêm Xuân Thành
Nguồn: TCNH CĐĐB năm 2019