Giải pháp hoàn thiện các chính sách, kế hoạch hành động quốc gia về kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam
16/12/2023 4.274 lượt xem
Việt Nam đặt mục tiêu giảm phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050, trên cơ sở chuyển dịch sang năng lượng tái tạo, xây dựng kinh tế carbon thấp, kinh tế tuần hoàn. Kinh tế tuần hoàn mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp, nền kinh tế và xã hội, giúp tận dụng được nguồn nguyên liệu đã qua sử dụng, giảm đến mức thấp nhất khai thác tài nguyên vốn có đang cạn kiệt. Tuy nhiên, việc chuyển đổi từ mô hình tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn bước đầu sẽ gặp khó khăn nhất định, trong bối cảnh Việt Nam còn thiếu các cơ chế, chính sách thúc đẩy và nguồn lực, công nghệ tái chế, tái sử dụng còn hạn chế.
 
1. Hiện trạng phát triển kinh tế tuần hoàn trên thế giới
 
Sức ép của tăng trưởng, đô thị hóa, công nghiệp hóa cùng nhu cầu tiêu thụ các loại nhiên liệu, năng lượng làm gia tăng khai thác tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu. Theo ước tính của Liên hợp quốc, đến năm 2030 nếu tiếp tục phát triển với mô hình kinh tế tuyến tính (dựa trên quá trình khai thác, sản xuất, tiêu dùng và cuối cùng thải ra môi trường), nhu cầu sử dụng tài nguyên sẽ tăng gấp ba lần so với hiện nay, vượt ngoài khả năng cung ứng của trái đất. Lượng chất thải vượt giới hạn sức chịu tải của môi trường. 
 
Theo dự báo của Liên minh châu Âu (EU), từ năm 1970 - 2017, lượng nguyên liệu khai thác toàn cầu hằng năm tăng gấp ba lần; đến năm 2050, lượng tiêu thụ toàn cầu sẽ bằng ba lần năng lực cung cấp của trái đất, gây ra rủi ro lớn về biến đổi khí hậu, gia tăng dịch bệnh... là mối đe dọa nghiêm trọng tới an ninh lương thực, an ninh khu vực và sức khỏe của con người, môi trường tự nhiên và hệ sinh thái trên toàn cầu. Khoảng một nửa lượng phát thải khí nhà kính, hơn 90% tổn thất đa dạng sinh học và căng thẳng về nước sạch là do khai thác tài nguyên, chế biến nguyên nhiên liệu, thực phẩm và hàng hóa, dịch vụ. 
 
Phát triển các mô hình kinh tế xanh, ít chất thải, carbon thấp, kinh tế tuần hoàn đang nhận được sự hưởng ứng của nhiều quốc gia, doanh nghiệp trên toàn thế giới. Trong đó, kinh tế tuần hoàn được xem là xu thế tất yếu, được đồng thuận toàn cầu, được các quốc gia coi là cuộc cách mạng công nghiệp xanh của thế kỉ 21. Kinh tế tuần hoàn là cơ hội chung tay thực hiện cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu vì sự phát triển bền vững. 
 
Nhiều quốc gia trên thế giới đã xác định thực hiện kinh tế tuần hoàn là một lộ trình dài hạn. Hà Lan, Pháp, Nhật Bản, Úc… xác định các lộ trình thực hiện từ 10 năm đến 20 năm, thậm chí 30 năm. Với những định hướng và hành động chiến lược trên các khía cạnh như: Nhận thức, hành vi và văn hóa, hoàn thiện thể chế, quy định pháp luật, huy động nguồn lực... thông qua việc sử dụng hiệu quả nhiều công cụ, chính sách khác nhau để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thay đổi hành vi sản xuất, tiêu dùng của các chủ thể theo hướng bền vững, chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn; thúc đẩy quản lí chất thải theo các nguyên tắc, biện pháp của kinh tế tuần hoàn; hỗ trợ phát triển thị trường các hàng hóa, dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế tuần hoàn như công nghệ, thiết bị, sản phẩm để thúc đẩy tái chế, tái sử dụng; phục hồi, thị trường các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ tạo ra từ áp dụng kinh tế tuần hoàn như nguyên liệu, vật liệu tái chế, sản phẩm, hàng hóa đã qua sử dụng; dịch vụ tư vấn, đánh giá, kết nối và chia sẻ các bên, hợp tác quốc tế, giám sát kinh tế tuần hoàn… 
 
Việc lựa chọn các ngành, lĩnh vực, sản phẩm, vật liệu, chất thải ưu tiên cho thực hiện kinh tế tuần hoàn của các nước cũng khác nhau do nhiều yếu tố như lợi thế, đặc trưng và nguy cơ phát sinh chất thải, ô nhiễm môi trường... Nhìn chung, các nước đều hướng đến chuyển dịch toàn diện để giải quyết đồng thời ba mục tiêu quan trọng là giảm chất thải, bảo tồn vốn tự nhiên, đa dạng sinh học và giảm phát thải khí nhà kính.
 
2. Vai trò của kinh tế tuần hoàn trong thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050
 
Tại COP26, các quốc gia đã đưa ra những cam kết mạnh mẽ về giảm phát thải khí nhà kính với mục tiêu đạt phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050 để giữ cho mức tăng nhiệt độ trái đất không quá 1,5 độ C vào cuối thế kỉ này. Việc chuyển đổi năng lượng từ hóa thạch sang năng lượng sạch, tái tạo là trọng tâm để đạt các mục tiêu trên. 
 
Tuy nhiên, theo nhiều tổ chức quốc tế, trong đó có Quỹ Ellen Macarthur, chuyển đổi năng lượng cùng với tiết kiệm, sử dụng hiệu quả năng lượng chỉ đóng góp được 55% cho mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, còn 45% nằm ở các giải pháp kinh tế tuần hoàn. Cũng theo tính toán của Quỹ Ellen Macarthur, thế giới có thể giảm 38% lượng khí thải từ vật liệu xây dựng vào năm 2050 bằng cách loại bỏ chất thải trong các tòa nhà và quá trình xây dựng, chia sẻ mục đích sử dụng các tòa nhà nhiều hơn; tái sử dụng và tái chế vật liệu xây dựng. Bên cạnh đó, có thể giảm một nửa lượng khí thải từ hệ thống thực phẩm vào năm 2050 thông qua các biện pháp tuần hoàn trong nông nghiệp. Do vậy, việc áp dụng các nguyên tắc loại bỏ chất thải và ô nhiễm, lưu thông các sản phẩm, nguyên liệu trong mô hình kinh tế tuần hoàn sẽ giúp giảm phát thải khí nhà kính trong công nghiệp, nông nghiệp. Cụ thể, việc giảm thiểu và loại bỏ chất thải và ô nhiễm sẽ giảm phát thải khí nhà kính trong toàn bộ chuỗi giá trị bằng cách luân chuyển, thu giữ lại năng lượng có trong các sản phẩm, tái tạo tự nhiên giúp cô lập và thu giữ được carbon.
 
Kinh tế tuần hoàn góp phần giảm rủi ro cho doanh nghiệp về khủng hoảng thừa sản phẩm, khan hiếm tài nguyên; tạo động lực để đầu tư, đổi mới công nghệ, giảm chi phí sản xuất, tăng chuỗi cung ứng... Xã hội sẽ được hưởng lợi nhờ giảm chi phí trong quản lí, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; tạo ra thị trường mới, cơ hội việc làm mới, nâng cao sức khỏe người dân...
 
Tuy nhiên, việc chuyển đổi từ mô hình tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn sẽ gặp những khó khăn nhất định, trong bối cảnh Việt Nam còn thiếu các cơ chế, chính sách thúc đẩy nguồn lực, công nghệ tái chế, tái sử dụng ở nước ta còn hạn chế.
 
3. Hiện trạng phát triển kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam
 
Việt Nam đã có mô hình kinh tế tuần hoàn từ nhiều thập niên trước, điển hình gắn với cách tổ chức vườn - ao - chuồng, vườn - ao - chuồng - rừng... Tuy nhiên, các mô hình này đều có quy mô nhỏ, chưa nhấn mạnh các yêu cầu ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo, tạo giá trị gia tăng và tăng năng suất, tư duy liên kết giữa các ngành.
 
Một số hạn chế trong phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam như: (i) Khuôn khổ, thể chế cho phát triển kinh tế tuần hoàn chưa hoàn thiện; (ii) Hạn chế trong nhận thức về kinh tế tuần hoàn, sự cần thiết chuyển đổi sang phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn; (iii) Nguồn nhân lực đáp ứng cho chuyển đổi sang phát triển kinh tế tuần hoàn còn yếu; (iv) Phần lớn doanh nghiệp là doanh nghiệp nhỏ và vừa, hạn chế về năng lực công nghệ tái chế, tái sử dụng, năng lực đóng góp vào phục hồi các nguồn tài nguyên; (v) Cách thức tiến hành, chuyển đổi từ nền kinh tế tuyến tính sang xây dựng mô hình kinh tế tuần hoàn còn chậm; do vậy, quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế còn chưa cụ thể, kịp thời, thiếu hệ thống tiêu chí đủ chi tiết và cơ chế ưu đãi phù hợp. 
 
Nhận thức được tính cấp thiết của việc cần phải thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, ngay từ năm 2020, Việt Nam đã chủ động nghiên cứu, xác định chủ trương, tư duy, định hướng và các nhiệm vụ phát triển kinh tế tuần hoàn. Nhiều nghiên cứu cơ bản, tham vấn các chuyên gia, nhà đầu tư về kinh tế tuần hoàn đã được thực hiện. Ngày 01/01/2021, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2021, trong đó giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Bên cạnh đó, ngày 10/01/2022, Chính phủ ban hành Nghị định số 08/2022/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, đã quy định các nội dung cụ thể về kinh tế tuần hoàn, trong đó có nhiệm vụ về xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia về kinh tế tuần hoàn. Việt Nam cũng đã thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 do Thủ tướng Chính phủ trực tiếp làm Trưởng ban chỉ đạo. Các bộ, cơ quan liên quan đã tập trung xây dựng các chiến lược, chương trình, kế hoạch hành động để triển khai thực hiện cam kết. Ngoài ra, nhiều bộ, ngành đã kí kết các thỏa thuận hợp tác thực hiện cam kết COP26 với Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA), Bộ Môi trường Hàn Quốc, Bộ Khoa học Trái đất Ấn Độ, Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC)...
 
Nhiều địa phương đã nhận thức, tổ chức quán triệt và triển khai các cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26 thông qua thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và hướng dẫn bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; tăng cường năng lực và nhận thức của đội ngũ cán bộ; tuyên truyền các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân sử dụng các nguồn năng lượng xanh; đôn đốc, hướng dẫn các cơ sở trên địa bàn thuộc đối tượng phải kiểm kê khí nhà kính xây dựng kế hoạch, lộ trình giảm phát thải khí nhà kính phù hợp với điều kiện sản xuất, kinh doanh. 
 
Các tổng công ty, tập đoàn nhà nước cũng triển khai các nghiên cứu, theo hướng giảm dần các nguồn năng lượng hóa thạch. Doanh nghiệp, tập đoàn tư nhân cũng hành động ngay. Một số tập đoàn đa quốc gia sẵn sàng hợp tác với các cơ quan thuộc Chính phủ để thực hiện mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” trong các hoạt động của mình.
 
Như vậy, trong thời gian ngắn kể từ Hội nghị COP26 đến nay, Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan có liên quan đã triển khai nhiều hành động thực hiện cam kết, nhận được sự ủng hộ vào cuộc của nhiều cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế, địa phương và doanh nghiệp. Việc thực hiện mục tiêu cam kết của Việt Nam tại COP26 đòi hỏi phải quyết tâm, nỗ lực cao; huy động mọi nguồn lực, toàn xã hội, toàn dân vào cuộc, trong đó kết nối và vận động thu hút nguồn lực từ quốc tế, các dòng tài chính xanh, chuyển giao công nghệ, tri thức, kinh nghiệm của các nước, các tổ chức quốc tế là rất quan trọng.
 
4. Các giải pháp hoàn thiện chính sách kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam
 
Khẳng định chủ động phát triển kinh tế tuần hoàn là tất yếu, Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam phù hợp với xu hướng, yêu cầu, tạo đột phá trong phục hồi kinh tế, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững; góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh, khả năng chủ động thích ứng, chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài, hiện thực hóa Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050. 
 
Bên cạnh đó, phát triển kinh tế tuần hoàn phải dựa trên cách tiếp cận mở, hướng nhiều hơn đến tạo dựng không gian, tạo thuận lợi cho phát huy hiệu quả kinh tế. Phát triển kinh tế tuần hoàn phải dựa trên cơ sở tăng cường hợp tác quốc tế, bảo đảm huy động và sử dụng hiệu quả tri thức nhân loại, các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số, nguồn lực cần thiết từ khu vực kinh tế tư nhân, tổ chức, đối tác nước ngoài.
 
Tuy nhiên, cách tiếp cận tuần tự, truyền thống là không đủ để tạo dựng “sức sống” cho các chính sách phát triển kinh tế tuần hoàn. Bối cảnh phát triển nền kinh tế cần có thêm động lực từ chính nỗ lực thúc đẩy “phục hồi xanh”. Theo đó, một nhiệm vụ quan trọng để sớm cụ thể hóa các định hướng này là xây dựng các nghị định về cơ chế thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn, ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về kinh tế tuần hoàn...
 
4.1. Hoàn thiện cơ chế thử nghiệm trong kinh tế tuần hoàn

Quy định cơ chế thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn để thúc đẩy, khuyến khích các nhà đầu tư, doanh nghiệp sớm thử nghiệm các ý tưởng sáng tạo, đồng thời đóng góp vào quá trình chuyển đổi xanh, phục hồi xanh ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, sẽ tạo điều kiện, căn cứ thực tiễn cho việc hoàn thiện khung khổ pháp lí cho kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. 
 
Các lĩnh vực tham gia cơ chế thử nghiệm bao gồm: Nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp; năng lượng; vật liệu xây dựng.
 
Lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 
 
Đây là một ngành quan trọng nhưng chưa có sự đột phá về tăng năng suất lao động, thúc đẩy ứng dụng khoa học và công nghệ gắn với phát triển bền vững, giảm phát thải ra môi trường. Điều này là một nguyên nhân dẫn tới tình trạng tăng trưởng của ngành này chưa được cải thiện một cách đáng kể trong nhiều năm qua (trung bình tăng trưởng 2,98%/năm trong giai đoạn 2016 - 2021; 3,36% năm 2022 và 2,43% trong quý I/2023). 
 
Tuy nhiên, dù đã có đóng góp trong việc cải thiện liên kết giữa các doanh nghiệp, song chưa tạo được tác động lan tỏa về năng suất, chất lượng, chuyển giao khoa học - công nghệ, các tiêu chuẩn, quy chuẩn gắn với sản xuất bền vững. Mặc dù các chính sách về thúc đẩy liên kết nội ngành, giữa ngành này với các ngành khác (công nghiệp, dịch vụ) đã được thực hiện trong nhiều năm qua. Nếu tạo được đột phá mới thông qua ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, Việt Nam có thể đạt tăng trưởng cao hơn trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, đạt giá trị cao hơn trong xuất khẩu, cải thiện năng suất, đóng góp hiệu quả vào giảm phát thải (thậm chí có thể bán tín chỉ carbon), an ninh lương thực ở khu vực và thế giới.
 
Lĩnh vực công nghiệp 
 
Lựa chọn lĩnh vực công nghiệp do cách tổ chức sản xuất duy trì nhiều năm trước đây chưa tạo ra được đột phá về liên kết nội ngành, liên kết với nông, lâm nghiệp và thủy sản và dịch vụ. Tăng trưởng của khu vực công nghiệp chỉ đạt 7,78% (năm 2022), đạt -0,82% vào quý I/2023. 
 
Việc liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, dù có nhiều cải thiện, vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp gắn với cải thiện mức độ độc lập, tự chủ của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập và khai thác các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. 
 
Phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn trong công nghiệp sẽ là tác nhân quan trọng để doanh nghiệp thay đổi các thức tổ chức sản xuất, thú đẩy tư duy liên kết, mô hình thích ứng với các yêu cầu của thị trường, đặc biệt là hướng đến xuất khẩu.
 
Lĩnh vực năng lượng 
 
Vấn đề an ninh năng lượng, giảm phát thải trong quá trình sản xuất, tiêu dùng năng lượng, tư duy phát triển xanh một cách nhất quán (ví dụ như ô tô điện chỉ đạt hiệu quả giảm phát thải tốt nhất nếu nguồn điện được sản xuất cũng “sạch”) để phát triển bền vững. Bản thân các nhà đầu tư nước ngoài cũng rất quan tâm đến lĩnh vực năng lượng, chuyển dịch năng lượng xanh, hướng tới các nguồn năng lượng tái tạo tại Việt Nam.
 
Lĩnh vực vật liệu xây dựng 
 
Nhu cầu xây dựng hạ tầng và các công trình dân dụng rất lớn đối với nước ta. Vì vậy, phải bảo đảm đủ nguồn cung vật liệu xây dựng một cách bền vững, giúp đáp ứng yêu cầu phát triển hạ tầng đúng thời hạn, chất lượng, đồng thời tạo đột phá cho cải thiện giá trị gia tăng của ngành. Thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong lĩnh vực vật liệu xây dựng cũng là cơ hội để Việt Nam tiếp thu các công nghệ mới, hiện đại nhằm tái chế vật liệu xây dựng ở các nước có trình độ tiên tiến hơn.
 
4.2. Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2030
 
Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang lấy ý kiến dự thảo kiến Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2030. Kế hoạch được xây dựng bám sát các quan điểm sau: Cơ chế, chính sách mới, phát triển hạ tầng liên kết, đồng bộ giữa Trung ương và địa phương, giữa tổ chức và cá nhân trong thực hiện kinh tế tuần hoàn; tăng cường nghiên cứu, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, gắn nội dung kinh tế tuần hoàn ngay từ giai đoạn thiết kế, sản xuất, phân phối, thu gom, tái chế, tái sử dụng chất thải.
 
Mục tiêu chung của Kế hoạch để hình thành hệ thống cơ cấu sản xuất, tiêu dùng bền vững, sử dụng hiệu quả giá trị tài nguyên, nguồn nguyên vật liệu đã qua sử dụng, hạn chế tối đa chất thải ra môi trường, thúc đẩy sự tái sinh của thiên nhiên trên cơ sở lựa chọn, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn phù hợp, khai thác hiệu quả tiềm năng về đổi mới, sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp, người dân để thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn, gắn với thực hành tốt, tạo dựng văn hóa trong sản xuất, tiến tới hình thành xã hội tuần hoàn vật chất. 
 
5. Giải pháp huy động nguồn lực tài chính cho kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam
 
Với nhu cầu vốn lớn để theo đuổi mục tiêu phát triển bền vững, Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức từ huy động vốn. Trong bối cảnh thâm hụt ngân sách nhà nước, nguồn vốn tài trợ và viện trợ có xu hướng giảm, huy động nguồn lực tài chính cho nền kinh tế chủ yếu từ nguồn của các tổ chức tín dụng, ngân hàng. 
 
Việc phân bổ và sử dụng nguồn tài chính phục chuyển đổi và xây dựng mô hình kinh tế tuần hoàn cũng gặp khó khăn. Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới (WB, 2021), Việt Nam sẽ cần đầu tư khoảng gần 370 tỉ USD (tương đương 6,8% GDP/năm) trong giai đoạn 2022 - 2040 để thực hiện lộ trình tăng trưởng xanh, với mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, trong đó 35% từ ngân sách, 65% từ nguồn tư nhân (có thể từ trong và ngoài nước).
 
Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần sớm xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách huy động nguồn lực tài chính cho kinh tế tuần hoàn. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần tiếp tục ban hành thông tư hướng dẫn các tổ chức tín dụng quản lí rủi ro về môi trường (rộng hơn so với nội dung về tín dụng xanh) nhằm tăng cường quản trị tín dụng với các lĩnh vực kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, kinh tế ít carbon…; xây dựng kế hoạch phát triển 5 năm theo hướng phát triển chiều sâu, gia tăng hiệu quả, nâng cao vai trò kênh dẫn vốn dài hạn quan trọng cho nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp, tạo động lực cho phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh.
 
Việt Nam cũng cần đưa nội dung về phát triển xanh thành tiêu chí quan trọng trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư trong nước; khuyến khích các hoạt động thu hồi, tái chế, đổi mới sáng tạo (xử lí rác thải công nghiệp; xe điện, xe tiết kiệm năng lượng, nguyên liệu đầu vào từ thiên nhiên)… Các doanh nghiệp cần xây dựng các phương án huy động các nguồn lực tài chính khả thi cho phát triển dự án kinh tế tuần hoàn (phương thức, quy mô, thời điểm, lãi suất, tiêu chuẩn phát hành, nhà đầu tư trong nước/quốc tế)...
 
Mặt khác, Việt Nam cũng cần tích cực tham gia đàm phán, thu hút đa dạng các nguồn vốn quốc tế, vốn ODA để tài trợ cho các dự án tín dụng kinh tế tuần hoàn; tăng cường hợp tác quốc tế nhằm huy động nguồn lực tài chính cho kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... Chỉ khi có đủ nguồn lực mới có thể đạt được các mục tiêu tăng trưởng xanh, phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 và thích ứng biến đổi khí hậu...
 
Tài liệu tham khảo:
 
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2023). Dự thảo Nghị định về cơ chế thử nghiệm phát triển kinh tế tuần hoàn.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2023). Dự thảo Kế hoạch hành động Quốc gia thực hiện kinh tế tuần hoàn đến năm 2035.
3. Ellen MacArthur Foundation (2020), Financing the Circular Economy - Capturing the Opportunity. Ellen MacArthur Foundation Publishing: Cowes, UK.
4. European Commission (2020). A new circular economy action plan for a cleaner and more competitive Europe. European Commission: Brussels, Belgium, pages 1-20.
5. European Commission (2020). New Circular Economy Action Plan The European Green Deal.
6. Hiệp Hội Nhựa Việt Nam (VPA, 2022). Báo cáo tổng quan ngành nhựa Việt Nam năm 2022.
7. Ocean Conservancy (2017). The next wave: Investment strategies for plastic free seas. Ocean Conservancy: Washington, DC, USA.
8. OECD (2021). The OECD Inventory of Circular Economy Indicators.
9. Sitra and ADBI (2022). Prospects for Transitioning from a Linear to Circular Economy in Developing Asia. Chapter 4, pages 63-78.
10. UN Environment Programme (2018). Single-Use Plastics: A Roadmap for Sustainability. Kenya: UN Environment Programme.
11. WBCSD (2019). Policy enablers to accelerate the circular economy: Scaling up actions across regions and stakeholders.
12. The World Bank Group (2022). Squaring the Circle: Policies from Europe’s Circular Economy Transition. World Bank Publications.

TS. Nguyễn Đình Đáp
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Thực tiễn thi hành về sử dụng Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân và một số đề xuất
Thực tiễn thi hành về sử dụng Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân và một số đề xuất
01/05/2024 234 lượt xem
Bài viết nghiên cứu, đánh giá quy định của pháp luật và quy chế nội bộ của Ngân hàng Hợp tác xã (NHHTX) về hoạt động cho vay hỗ trợ từ Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (Quỹ bảo toàn) và thực tiễn thi hành từ thời điểm thành lập năm 2014 đến nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay hỗ trợ từ Quỹ bảo toàn.
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
25/04/2024 782 lượt xem
Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 được Quốc hội thông qua ngày 18/01/2024. Nội dung Luật có nhiều điểm mới tích cực, được đánh giá sẽ góp phần đảm bảo hoạt động tài chính của các TCTD phát triển lành mạnh, ổn định.
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
22/04/2024 585 lượt xem
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động ngân hàng cũng không nằm ngoài sự chuyển đổi đó. Tại Việt Nam, những năm gần đây, ngành Ngân hàng luôn là một trong những ngành có tỉ lệ chuyển đổi số nhanh nhất.
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
17/04/2024 898 lượt xem
Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật để thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư trong nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế, hình ảnh của nước ta trên trường quốc tế.
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính -  Một số khuyến nghị cho Việt Nam
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính - Một số khuyến nghị cho Việt Nam
12/04/2024 1.367 lượt xem
Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia, góp phần thúc đẩy và mở rộng khả năng tiếp cận tài chính của dân số, qua đó khuyến khích tiết kiệm và đầu tư đối với hộ gia đình và doanh nghiệp, tạo cơ hội phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ, mở rộng khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm và thu nhập, góp phần hạn chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính.
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
16/03/2024 3.903 lượt xem
Năm 2024, kinh tế thế giới dự báo tiếp tục khó khăn dưới tác động của điều kiện tài chính thắt chặt, mặt bằng lãi suất còn cao, xung đột địa chính trị, rủi ro tài chính gia tăng, lạm phát có dấu hiệu chậm lại nhưng vẫn cao…; ở trong nước, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức do bối cảnh cầu thế giới, thương mại quốc tế chậm phục hồi, bảo hộ thương mại gia tăng; sản xuất, kinh doanh tiếp tục khó khăn, mức độ hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn tương đối thấp; những khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản vẫn chưa được xử lý căn cơ, đòi hỏi các cấp, bộ, ngành Trung ương và địa phương tiếp tục triển khai nhiều giải pháp tổng thể hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
15/03/2024 3.241 lượt xem
Ngày 07/11/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước, có hiệu lực thi hành từ ngày 22/12/2023.
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
14/03/2024 7.217 lượt xem
Giai đoạn từ năm 2022 đến nay, trước bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) liên tục tăng lãi suất, NHNN đã điều hành tỷ giá tương đối ổn định, đặc biệt là tỷ giá với các ngoại tệ như Đô la Mỹ, Euro và các ngoại tệ khác tại các quốc gia có quan hệ giao thương đáng kể với Việt Nam nhằm duy trì ổn định vĩ mô trong nước, hỗ trợ đầu tư, sản xuất phát triển.
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
13/03/2024 3.298 lượt xem
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân đối với Dự thảo Nghị định quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng (sau đây gọi tắt là Dự thảo Nghị định).
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
06/03/2024 3.349 lượt xem
Một trong những sứ mệnh của chuyển đổi số là phổ cập, cá nhân hóa dịch vụ số như giáo dục, y tế, ngân hàng để hướng tới người dân. Ngành Ngân hàng luôn phấn đấu tạo điều kiện thuận lợi cho người dân sử dụng dịch vụ trên môi trường điện tử, trong đó có hướng đến phổ cập tài chính tới vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
05/03/2024 9.580 lượt xem
Ngày 18/01/2024, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 với 15 chương, 210 điều. Luật Các TCTD năm 2024 đã bám sát quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước; khắc phục các vướng mắc, bất cập hiện tại; tham khảo thông lệ, kinh nghiệm quốc tế và phù hợp chiến lược phát triển ngành Ngân hàng. Xuất phát từ đó, bài viết tập trung làm rõ những điểm mới, nổi bật của Luật này.
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/02/2024 3.346 lượt xem
Trải qua hơn 10 năm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, công tác thống kê tiền tệ phục vụ điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có nhiều bước tiến đáng kể.
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
24/02/2024 4.651 lượt xem
Năm 2023 vừa qua đã chứng kiến những biến động mạnh mẽ trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) trên thế giới, nổi bật là việc các ngân hàng trung ương (NHTW) liên tục tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát.
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
13/02/2024 3.307 lượt xem
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các nước đã thừa nhận sự cần thiết của chính sách an toàn vĩ mô (ATVM) trong ổn định tài chính và đặt chính sách ATVM vào vị trí trung tâm của sự tương tác giữa các chính sách kinh tế vĩ mô với chính sách an toàn vi mô.
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
11/02/2024 4.328 lượt xem
Nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2023 được triển khai trong bối cảnh tình hình thế giới phát sinh nhiều biến động, diễn biến phức tạp, khó dự báo. Căng thẳng địa chính trị, tranh chấp giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, xung đột giữa Nga - Ukraine và Israel - Hamas diễn biến bất ngờ, lạm phát và giá nhiên liệu tăng cao khiến đà phục hồi của kinh tế thế giới chậm lại.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?