Làn sóng dịch Covid-19 lần thứ tư trong năm 2021 với biến thể Delta đã ảnh hưởng nặng nề đến kinh tế trong nước. Trước bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã kịp thời chỉ đạo ban hành các quyết sách hỗ trợ, đảm bảo an sinh xã hội. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) linh hoạt điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) và chỉ đạo hệ thống ngân hàng tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, duy trì vốn cho sản xuất, góp phần thực hiện chính sách an sinh xã hội, đảm bảo kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Lãi suất cho vay nền kinh tế giảm đáng kể, nhu cầu tín dụng của nền kinh tế được đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Khách hàng gặp khó khăn tiếp tục được hỗ trợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay; người lao động phải ngừng việc do dịch bệnh đã được trả lương từ chương trình cho vay tái cấp vốn của NHNN đối với Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH)… Việc phổ quát vắc-xin giúp tái mở cửa, nhưng quá trình phục hồi kinh tế còn nhiều bất trắc trước biến thể Omicron mới và áp lực lạm phát. NHNN sẽ tiếp tục chỉ đạo hệ thống ngân hàng hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân, đồng thời chủ động, linh hoạt phối hợp với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác để kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Ngành Ngân hàng đã triển khai nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân vượt qua đại dịch Covid-19
Bối cảnh năm 2021
Năm 2021, đại dịch Covid-19 tiếp tục diễn biến nguy hiểm và phức tạp với biến chủng Delta, khiến tiến trình phục hồi kinh tế phân hóa rõ rệt giữa các nước phát triển đã phổ quát vắc-xin với các nước đang, kém phát triển có tỷ lệ tiêm vắc-xin mức thấp. Quỹ Tiền tệ quốc tế - IMF (10/2021) dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2021 đạt 5,9%, được dẫn dắt bởi các nền kinh tế phát triển như Mỹ, châu Âu. Tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu tiếp tục là lực cản, đẩy giá hàng hóa cơ bản (lương thực, thực phẩm, năng lượng) và chi phí sản xuất tăng cao. Lạm phát tăng cao kỷ lục tại nhiều nước trong nhiều thập kỷ trở lại đây, trong khi phục hồi kinh tế còn chưa vững chắc. Xu hướng thu hẹp nới lỏng CSTT, tăng lãi suất trở thành chủ đạo để ứng phó với nguy cơ lạm phát và rủi ro bất ổn tài chính. Tính đến cuối tháng 12/2021, đã có tổng cộng 113 lượt tăng lãi suất trên toàn cầu.
Trong nước, đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ tư tác động nghiêm trọng đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội; giãn cách xã hội, chuỗi cung ứng đứt gãy, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng trong khi nhiều doanh nghiệp thiếu hụt lao động… đã bào mòn sức chống chịu của doanh nghiệp, người dân, tạo gánh nặng lớn lên hệ thống an sinh xã hội. Trong bối cảnh đó, mục tiêu bảo vệ sức khỏe Nhân dân được Đảng và Nhà nước ưu tiên trước hết và trên hết; với sự phối hợp nhịp nhàng của các chính sách kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội kịp thời, đồng bộ nên mặc dù bị tác động nghiêm trọng từ đại dịch Covid-19 nhưng tăng trưởng kinh tế năm 2021 vẫn đạt 2,58%, lạm phát được kiểm soát ở mức 1,84%, thấp nhất kể từ năm 2016.
CSTT và hoạt động ngân hàng đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân vượt qua đại dịch Covid-19
Bám sát các chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, ngay từ đầu năm, NHNN đã chủ động, quyết liệt, chỉ đạo hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp điều hành CSTT, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa (CSTK) và các chính sách vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời triển khai hàng loạt các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, đồng hành với doanh nghiệp và người dân; phù hợp với đặc thù và tính chất cấp bách của tình hình trong nước, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đảm bảo thanh khoản thông suốt trên thị trường tiền tệ, tạo điều kiện để TCTD tiếp tục giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ TCTD đẩy mạnh tín dụng đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu vốn của nền kinh tế.
NHNN mua lượng lớn ngoại tệ bổ sung Dự trữ ngoại hối Nhà nước, đưa tiền đồng ra thị trường, qua đó thanh khoản hệ thống TCTD dồi dào, đồng thời, hàng ngày NHNN chào mua giấy tờ có giá trên thị trường mở nhằm phát tín hiệu sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản, ổn định thị trường tiền tệ. Nhờ đó, lãi suất liên ngân hàng giảm xuống và duy trì ở mức rất thấp trong lịch sử, giảm chi phí vốn đầu vào cho TCTD, qua đó tạo điều kiện thuận lợi để TCTD giảm lãi suất cho vay.
Thứ hai, duy trì lãi suất điều hành ở mức thấp, tạo điều kiện và định hướng để mặt bằng lãi suất cho vay của TCTD giảm.
Ngay khi dịch bệnh bùng phát trong năm 2020, NHNN đã 3 lần giảm lãi suất điều hành với mức giảm 1,5 - 2%/năm, là một trong những ngân hàng trung ương (NHTW) giảm lãi suất điều hành mạnh nhất khu vực. Trong năm 2021, NHNN duy trì các mức lãi suất thấp này, kết hợp điều hành thanh khoản dồi dào trên thị trường tiền tệ. Kết quả là, đến cuối tháng 11/2021, lãi suất huy động và cho vay VND bình quân của TCTD giảm tương ứng khoảng 0,51%/năm và 0,81%/năm so với cuối năm 2020 sau khi đã giảm khoảng 1%/năm trong năm 2020. Lãi suất cho vay bình quân đối với các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ là 4,3%/năm (thấp hơn mức trần quy định là 4,5%/năm).
Thứ ba, đảm bảo cung ứng vốn tín dụng đầy đủ và kịp thời cho các nhu cầu sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế, linh hoạt điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với các TCTD, hướng tăng trưởng tín dụng gắn với chất lượng.
NHNN điều hành tăng trưởng tín dụng trên cơ sở chỉ tiêu định hướng từ đầu năm, và linh hoạt điều chỉnh để phù hợp với diễn biến phức tạp, khó lường của dịch Covid-19. Theo đó, NHNN điều chỉnh tăng chỉ tiêu tín dụng cho TCTD có năng lực tài chính, quản trị điều hành, có khả năng mở rộng tín dụng an toàn, lành mạnh, để kịp thời hỗ trợ nền kinh tế. Đồng thời, NHNN chỉ đạo TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tăng cường quản lý rủi ro đối với tín dụng tiêu dùng; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, góp phần hạn chế tín dụng đen.
Trên cơ sở đó, tín dụng tăng ngay từ đầu năm và cao hơn năm 2020, kịp thời đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Đến ngày 30/12/2021, tín dụng tăng 13,47% so với cuối năm 2020, tăng 13,79% so với cùng kỳ năm 2020 (cùng kỳ năm 2020 tăng 11,85% so với cuối năm 2019 và tăng 11,93% so với cùng kỳ năm 2019). Cơ cấu tín dụng chuyển dịch tích cực, tập trung cho các lĩnh vực sản xuất kinh doanh; 4/5 lĩnh vực ưu tiên có mức tăng trưởng tín dụng cao hơn mức tăng cùng kỳ năm 20201, hỗ trợ tích cực quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp, phát triển thủy sản, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tăng trưởng tín dụng các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán trong tầm kiểm soát của NHNN.
Thứ tư, ổn định thị trường ngoại tệ.
NHNN điều hành tỷ giá linh hoạt, bám sát cung cầu thị trường, các cân đối vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu CSTT. Trong khi xu hướng rút vốn khỏi các nước mới nổi và đang phát triển khiến đồng tiền của nhiều nước trong khu vực mất giá khá lớn so với USD (Baht Thái giảm 9,7%, Ringgit Malaysia giảm 2,5%, Đô-la Singapore giảm 1%) thì tỷ giá USD/VND tiếp tục được duy trì ổn định. Đến cuối tháng 12/2021, tỷ giá trung tâm USD/VND chỉ tăng 0,06% so với cuối năm 2020. Thanh khoản ngoại tệ trên thị trường thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của người dân, doanh nghiệp đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời.
Các ngân hàng đã tiết giảm tối đa chi phí hoạt động, giảm lợi nhuận để giảm lãi suất hỗ trợ nền kinh tế
Thứ năm, triển khai nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
Bên cạnh việc điều hành CSTT chủ động, linh hoạt, NHNN chỉ đạo TCTD đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân, triển khai hàng loạt các giải pháp hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh; liên tục rà soát, chỉnh sửa để các biện pháp, chính sách hỗ trợ ngày càng thiết thực hơn, dễ tiếp cận và đi vào đời sống hơn, cụ thể:
(i) Kịp thời sửa đổi, bổ sung Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 cho phép TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 (Thông tư số 03/2021/TT-NHNN ngày 02/4/2021 và Thông tư số 14/2021/TT-NHNN ngày 07/9/2021) qua đó mở rộng quy mô, phạm vi đối tượng áp dụng các biện pháp hỗ trợ, kéo dài thời gian hỗ trợ đến tháng 6/2022. Đến ngày 20/12/2021, hệ thống TCTD đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ cho 775.000 khách hàng, lũy kế giá trị nợ được cơ cấu từ ngày 23/01/2020 khoảng 607.000 tỷ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho 2 triệu khách hàng với dư nợ 3,87 triệu tỷ đồng; cho vay mới lãi suất thấp hơn so với trước đại dịch Covid-19 với doanh số lũy kế từ ngày 23/01/2020 đạt trên 7,4 triệu tỷ đồng cho hơn 1,3 triệu khách hàng.
(ii) Hỗ trợ người sử dụng lao động trả lương ngừng việc cho người lao động. NHNN cho vay tái cấp vốn với lãi suất 0%/năm, không tài sản bảo đảm đối với NHCSXH để cho vay người sử dụng lao động trả lương ngừng việc cho người lao động, khôi phục sản xuất, kinh doanh. Nhờ đó, hàng nghìn lượt người lao động đã được hỗ trợ trả lương trong thời gian ngừng việc từ các chương trình cho vay này, theo đó đợt hỗ trợ thứ nhất (kết thúc vào ngày 31/01/2021) có 245 người sử dụng lao động vay để trả lương ngừng việc cho 11.276 người lao động; đợt hỗ trợ thứ hai được tích cực triển khai kể từ tháng 7/2021, đến 27/12/2021 có 2.311 đơn vị sử dụng lao động vay để trả lương cho 527.309 lượt người lao động.
(iii) Tháo gỡ khó khăn cho Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines - VNA) theo chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ: NHNN đã ban hành các quyết định tái cấp vốn tối đa 4.000 tỷ đồng cho 03 TCTD sau khi các TCTD này cho VNA vay; đến ngày 27/12/2021, NHNN đã giải ngân tái cấp vốn 3.862,6 tỷ đồng đối với 03 TCTD này.
(iv) Tiếp tục thực hiện các chương trình miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán cho người dân, doanh nghiệp với tổng số phí dịch vụ thanh toán mà NHNN và Napas giảm để hỗ trợ nền kinh tế trong năm 2021 khoảng 1.557 tỷ đồng. Nhờ đó, TCTD tiếp tục giảm, miễn phí dịch vụ thanh toán cho khách hàng; tăng cường các ứng dụng chuyển đổi số, phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, theo đó, bên cạnh các phương thức thanh toán qua POS, ATM, chuyển khoản, Internet, mã QR thì từ năm 2021, NHNN tiếp tục cho phép các ngân hàng mở tài khoản trực tuyến thông qua công nghệ eKYC, triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ (Mobile-Money)...
Kết quả điều hành CSTT cùng với các động thái hỗ trợ chủ động, kịp thời trên đây thể hiện sự đồng hành, sẻ chia với nền kinh tế của hệ thống ngân hàng trong bối cảnh khó khăn chung của đại dịch Covid-19, khi bản thân hệ thống ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro do đại dịch gây ra như khả năng trả nợ của doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình suy giảm, tiềm ẩn rủi ro gia tăng nợ xấu, chi phí trích lập dự phòng rủi ro gia tăng. Với vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, ngành Ngân hàng vừa đảm bảo cung cấp vốn đủ và kịp thời phục vụ nhu cầu phục hồi kinh tế, vừa đảm bảo hoạt động của chính hệ thống ngân hàng an toàn, ổn định, bền vững.
Năm 2022, CSTT tiếp tục tập trung hỗ trợ quá trình phục hồi kinh tế nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát đang gia tăng
Triển vọng kinh tế thế giới năm 2022 thuận lợi và khó khăn đan xen; IMF (10/2021) dự báo kinh tế thế giới phục hồi với mức tăng trưởng 4,9%. Đi kèm với quá trình phục hồi kinh tế là rủi ro lạm phát, tăng giá hàng hóa cơ bản, biến động phức tạp của thị trường tài chính, tiền tệ toàn cầu; từ đó, thu hẹp nới lỏng tiền tệ, tăng lãi suất sẽ là xu hướng chính của năm 2022. IMF cảnh báo nguy cơ lạm phát năm 2022 toàn cầu và khuyến nghị các quốc gia thận trọng, không đánh mất thành quả ổn định giá cả.
Là nền kinh tế có độ mở lớn, Việt Nam có thể chịu tác động bởi những xu hướng toàn cầu nêu trên. Do vậy, duy trì các giải pháp, chính sách để hỗ trợ phục hồi kinh tế là cần thiết nhưng không thể chủ quan với áp lực lạm phát. Do đó, trong năm 2022, điều hành CSTT cần chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với CSTK và các chính sách vĩ mô khác hỗ trợ phục hồi kinh tế, đồng thời chú trọng kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Cụ thể:
Một là, NHNN điều hành chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ CSTT, phối hợp chặt chẽ với CSTK và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi, phát triển kinh tế, thích ứng kịp thời với diễn biến thị trường trong và ngoài nước. Khuyến khích TCTD tiếp tục tiết giảm chi phí để phấn đấu giảm lãi suất cho vay. Hướng tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; không nới lỏng điều kiện cấp tín dụng. Kiểm soát chặt chẽ cho vay ngoại tệ, tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
Hai là, dịch bệnh có thể còn kéo dài, đòi hỏi sự chủ động thích ứng thông qua chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ, là chìa khóa để phát triển kinh tế trong trạng thái “bình thường mới”. Ngành Ngân hàng đã có nhiều giải pháp thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số, hiện đại hóa hệ thống thanh toán và hoạt động ngân hàng, đẩy mạnh áp dụng các hình thức giao dịch “phi tiếp xúc”. Đây tiếp tục là định hướng mà ngành Ngân hàng đẩy mạnh trong năm 2022 và những năm tới để vừa bắt kịp, vừa dẫn dắt quá trình chuyển đổi số, hướng đến nền kinh tế số.
Ba là, về đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, xử lý nợ xấu, trong thời gian tới, NHNN tiếp tục chỉ đạo hệ thống TCTD đẩy mạnh các giải pháp cơ cấu lại và xử lý nợ xấu, đặc biệt là sau khi Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD và xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025 được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Trọng tâm là tiếp tục chấn chỉnh, cơ cấu lại các TCTD yếu kém để lành mạnh hóa, nâng cao năng lực tài chính, hiệu quả hoạt động, bảo đảm an toàn hệ thống, đẩy mạnh xử lý nợ xấu nhằm lành mạnh hóa tình hình hoạt động, nâng cao chất lượng tín dụng, năng lực tài chính và bảo đảm an toàn hệ thống
các TCTD.■
1Cụ thể, đến tháng 11/2021: (i) Tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn tăng 12,29% so với cuối năm 2020, chiếm 25,12% (cùng kỳ năm 2020 tăng 8,74%, chiếm 24,99%; cả năm 2020 tăng 11,52%, chiếm 24,78%). (ii) Tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 9,04%, chiếm 19,41% (cùng kỳ năm 2020 tăng 9,58%, chiếm 19,58%; cả năm 2020 tăng 13,56%, chiếm 19,8%); (iii) Tín dụng đối với xuất khẩu tăng 11,3%, chiếm 2,95% (cùng kỳ năm 2020 tăng 8,36%, chiếm 2,92%; cả năm 2020 tăng 12,89%, chiếm 2,94%). (iv) Tín dụng đối với công nghiệp hỗ trợ tăng 19,26%, chiếm 2,66% (cùng kỳ năm 2020 giảm 3,2%, chiếm 2,52%; cả năm 2020 giảm 1,74%, chiếm 2,47%). (v) Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 18,74%, chiếm 0,38% (cùng kỳ năm 2020 tăng 1,51%, chiếm 0,35%; cả năm 2020 tăng 5,26%, chiếm 0,35%).