Thời gian qua, hệ thống ngân hàng đã tích cực thực hiện cấp tín dụng cho các ngành, lĩnh vực xanh, phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng để thực hiện mục tiêu quốc gia về tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, còn nhiều rào cản khiến quy mô tín dụng xanh chưa được như kì vọng. Để thực hiện thành công Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, cần huy động nguồn lực của toàn xã hội, trong đó có hoàn thiện hành lang pháp lí tạo cơ sở cho các tổ chức tín dụng (TCTD) có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng, bên cạnh các giải pháp nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh.
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
Tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, giảm dần sự phụ thuộc vào nguyên liệu hóa thạch, tăng tỉ trọng năng lượng tái tạo trong phát triển kinh tế đang là xu thế và hướng đi của nhiều nền kinh tế, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển, để ứng phó có hiệu quả với những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Là một trong số những quốc gia dễ bị tổn thương nhất bởi biến đổi khí hậu, thời gian qua, Việt Nam luôn chủ động và tích cực triển khai nhiều hoạt động vừa ứng phó với biến đổi khí hậu, vừa hướng tới tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
Về phía Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan Chính phủ cũng đã khẩn trương ban hành nhiều cơ sở pháp lí chung để bộ, ngành, địa phương, ngành nghề triển khai nhằm tiến tới mục tiêu Net Zero năm 2050 như Luật Bảo vệ môi trường ngày 17/11/2020, Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07/01/2022 quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-zôn...
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) được giao nhiệm vụ quan trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng xanh. Tại Quyết định số 403/QĐ-TTg ngày 20/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020, NHNN được giao chủ trì thực hiện nhiệm vụ số 37 về “Hoàn thiện thể chế và tăng cường năng lực hoạt động tài chính - tín dụng của các ngân hàng thương mại phục vụ tăng trưởng xanh”.
Tiếp đó, ngày 01/10/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050. Theo đó, NHNN được giao nhiệm vụ “Rà soát, điều chỉnh và hoàn thiện thể chế về ngân hàng và tín dụng phù hợp với các mục tiêu tăng trưởng xanh; nghiên cứu, xây dựng mô hình phát triển ngân hàng xanh; ban hành các chính sách tín dụng ưu đãi cho các dự án đầu tư xanh”.
Phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng để thực hiện mục tiêu quốc gia về tăng trưởng xanh
Theo các chuyên gia, khái niệm “ngân hàng xanh’ được hiểu là một ngân hàng xây dựng được một chiến lược kinh doanh bền vững, thể hiện ở việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng thỏa mãn các tiêu chí đảm bảo trách nhiệm với môi trường và xã hội. Một ngân hàng được coi là “xanh” khi thỏa mãn cả hai điều kiện: Về ngắn hạn, cung cấp các dịch vụ xanh; về dài hạn, có một chiến lược kinh doanh đáp ứng các tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội và cả tiêu chuẩn về đảm bảo môi trường.
Tín dụng xanh được hiểu là việc các TCTD cho vay đối với các hoạt động đầu tư, sản xuất “xanh” - bao gồm các hoạt động tiêu dùng, đầu tư, sản xuất, kinh doanh thân thiện với môi trường (không gây hại và góp phần bảo vệ môi trường).
Lợi ích về phương diện quốc gia, các chính sách tín dụng xanh đóng góp tích cực cho sự phát triển cân bằng, hài hòa giữa kinh tế, môi trường và xã hội, góp phần xóa đói, giảm nghèo và cải thiện chất lượng đời sống nhân dân; là cơ hội để các tổ chức tài chính, tín dụng xanh quốc tế đầu tư vốn vào Việt Nam. Bên cạnh đó, các chính sách tín dụng xanh là cơ hội để các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi trong và ngoài nước; cơ hội nhận được sự hỗ trợ của Nhà nước. Về lâu dài, tránh được những rủi ro về môi trường và đem lại sự phát triển bền vững của chính doanh nghiệp. Các chính sách tín dụng xanh mang lại cơ hội sử dụng sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường, hạn chế được việc sử dụng sản phẩm độc hại. Bên cạnh đó, tín dụng xanh giúp hỗ trợ cải thiện môi trường sống, duy trì và bảo tồn lợi ích về tài nguyên cho thế hệ mai sau. Ngoài ra, vai trò của tín dụng xanh còn được thể hiện ở việc nâng cao nhận thức của các nhà quản lí, doanh nghiệp và các cá nhân về tầm quan trọng của đầu tư xanh trong phát triển bền vững.
Trên cơ sở bám sát các nhiệm vụ được giao tại Luật Bảo vệ môi trường, nhiệm vụ được giao tại Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, trong thời gian qua, NHNN đã kịp thời hoàn thiện hệ thống pháp lí, văn bản hướng dẫn triển khai tín dụng xanh, ngân hàng xanh.
Cụ thể, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định 1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018 về việc phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam. NHNN đã ban hành văn bản hướng dẫn các TCTD cấp tín dụng xanh từ năm 2015, sau đó, năm 2017 hoàn thiện văn bản hướng dẫn cấp tín dụng cụ thể đối với 12 ngành, lĩnh vực xanh; ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030. Đồng thời, NHNN cũng hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng, phát triển nền tảng số, hạ tầng số, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số để phục vụ phát triển kinh tế số, xã hội số, góp phần phát triển bền vững. Gần đây nhất, Thống đốc NHNN đã ban hành Thông tư số 17/2022/TT-NHNN ngày 23/12/2022 hướng dẫn thực hiện quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; qua đó, thể hiện trách nhiệm của ngành Ngân hàng thực hiện công tác bảo vệ môi trường, đồng thời tăng cường sức chống chịu của hệ thống ngân hàng trước rủi ro về môi trường... Bên cạnh đó, NHNN thực hiện các giải pháp nhằm tăng cường năng lực cho hệ thống ngân hàng trong thực hiện tín dụng xanh.
Với việc triển khai đồng bộ các giải pháp nêu trên, thời gian qua, hệ thống ngân hàng đã có sự chuyển biến rõ rệt trong thực hiện cấp tín dụng cho các ngành, lĩnh vực xanh, phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng để thực hiện mục tiêu quốc gia về tăng trưởng xanh.
Theo NHNN, giai đoạn 2017 - 2022, dư nợ cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với các lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng bình quân đạt hơn 23%/năm. Đến ngày 30/6/2023, dư nợ cấp tín dụng xanh đạt gần 528,3 nghìn tỉ đồng, chiếm tỉ trọng khoảng 4,2% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Trong số 12 lĩnh vực xanh, NHNN hướng dẫn các TCTD cho vay, dư nợ tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm 45%) và nông nghiệp xanh (31%). Các TCTD đã tăng cường đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng với dư nợ được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội đạt khoảng 2.485 triệu tỉ đồng, chiếm gần 20%/tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế. Hiện nay, có rất nhiều ngân hàng, TCTD đã ban hành quy định nội bộ về rủi ro môi trường và tác động xã hội. Theo thống kê, 80 - 90% các ngân hàng đã áp dụng một phần hoặc toàn bộ ESG1 trong hoạt động, có tới gần 50% các ngân hàng và TCTD thành lập bộ phận quản trị rủi ro cho bảo vệ môi trường.
Về phía các ngân hàng thương mại (NHTM), Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) thời gian qua đã đạt gần 70% dư nợ cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nên việc phát triển tín dụng xanh rất quan trọng. Trong 6 tháng đầu năm 2023, dư nợ của Agribank đã tăng trưởng bằng năm 2022. Đặc biệt, dư nợ lớn nhưng số lượng khách hàng đạt tiêu chuẩn tín dụng xanh của Agribank luôn chiếm cao nhất, khoảng 42.000 khách hàng. Agribank phát triển mạnh dư nợ tín dụng xanh trong lĩnh vực lâm nghiệp, năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, nông nghiệp xanh. Agribank đang triển khai hiệu quả 7 chương trình tín dụng chính sách và cho vay theo 2 chương trình mục tiêu quốc gia trong nông nghiệp, nông thôn.
Còn tại NHTM cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), dư nợ tín dụng xanh giai đoạn 2019 - 2022 của BIDV tăng trưởng bình quân 45%/năm. Đến thời ngày 30/6/2023, BIDV đang cấp tín dụng lĩnh vực xanh cho hàng nghìn dự án với dư nợ trên 66 nghìn tỉ đồng, tăng gần 4% so với đầu năm và chiếm tỉ trọng khoảng 4% tổng dư nợ của BIDV. Danh mục cho vay của BIDV cho các lĩnh vực xanh và phát triển bền vững đến năm 2025 dự kiến đạt 3 tỉ USD, chiếm khoảng 5% tổng dư nợ của BIDV.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai các giải pháp nhằm thúc đẩy tín dụng xanh hiện nay còn gặp một số khó khăn. Hành lang pháp lí để triển khai quản lí rủi ro môi trường - xã hội, tín dụng xanh đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện. Hiện nay, mới chỉ có Luật Bảo vệ môi trường (số 72/2020/QH14) và Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường (Nghị định số 08/2022/NĐ-CP). Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh đang trong quá trình hoàn thiện. Việt Nam chưa có quy định chung của quốc gia về tiêu chí, danh mục dự án xanh cho các ngành/lĩnh vực theo hệ thống phân ngành kinh tế, làm căn cứ để các TCTD xác định cấp tín dụng xanh cho giai đoạn tới.
Hơn nữa, các quy định về ngân hàng xanh, tín dụng xanh về cơ bản mới chỉ mang tính chất định hướng, khuyến khích các TCTD thực hiện mà chưa mang tính bắt buộc. Nhiều ngân hàng chưa xây dựng được quy định nội bộ về quản lí rủi ro môi trường và xã hội, chưa có đơn vị/bộ phận chuyên trách về quản lí rủi ro môi trường và xã hội; mức độ nhận thức của đội ngũ cán bộ trong các ngân hàng, TCTD về chuyển đổi xanh vẫn còn một số hạn chế...
Việc cấp tín dụng xanh đòi hỏi yếu tố kĩ thuật về môi trường chuyên sâu, điều này sẽ là khó khăn cho cán bộ tín dụng trong việc thẩm định, đánh giá hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ của khách hàng nhất là lĩnh vực năng lượng tái tạo do thời gian thực hiện chưa dài, hiệu quả phụ thuộc nhiều vào hợp đồng mẫu; khó khăn trong việc giám sát và quản lí rủi ro khi thực hiện cấp tín dụng do còn thiếu cơ sở pháp lí, tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá công cụ đo lường tác động đến môi trường. Việc đầu tư vào các ngành/lĩnh vực xanh, nhất là lĩnh vực năng lượng tái tạo, công trình xanh thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, trong khi nguồn vốn cho vay của các TCTD thường là vốn huy động ngắn hạn, khó khăn cho các TCTD trong việc cân đối vốn và đảm bảo tỉ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn theo quy định. Hạn chế trong ý thức bảo vệ môi trường của người dân, doanh nghiệp dẫn đến bị xử phạt vi phạm pháp luật về môi trường ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án, tiềm ẩn rủi ro thu hồi nợ cho các TCTD.
Thực tế, tín dụng xanh đạt được kết quả nhưng vẫn còn một số hạn chế (chỉ chiếm gần 5% tổng dư nợ nền kinh tế). Nhìn chung, các NHTM đã ý thức được quyền lợi, trách nhiệm trong nâng cao chất lượng quản lí tín dụng, song hiện tại các ngân hàng gặp khó vì vốn huy động chủ yếu ngắn hạn nhưng cho vay đầu tư các dự án xanh, dự án về môi trường thường có thời gian dài.
Khơi thông nguồn vốn tín dụng cho các lĩnh vực xanh vì mục tiêu tăng trưởng xanh
Để các cơ chế, chính sách của ngành Ngân hàng thực sự phát huy hiệu quả nhằm mở rộng và khơi thông nguồn vốn tín dụng cho các lĩnh vực xanh, ở tầm vĩ mô, Việt Nam cần đẩy nhanh việc rà soát, tham mưu hoàn thiện hành lang pháp lí. Chính phủ cần sớm ban hành quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh; ban hành danh mục phân loại xanh làm cơ sở cho các TCTD có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh2.
Các bộ, ngành liên quan cần phối hợp xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ các ngành xanh (thuế, phí, vốn, kĩ thuật, thị trường, đến quy hoạch, chiến lược phát triển...) của từng ngành/lĩnh vực một cách đồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh; cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu xanh, tạo kênh huy động vốn cho các chủ đầu tư có thêm nguồn lực triển khai các dự án xanh; sớm hoàn thiện Đề án phát triển thị trường carbon tại Việt Nam, trong đó làm rõ vai trò tham gia của các định chế tài chính, các TCTD trong triển khai, thực hiện.
Về phía ngành Ngân hàng, NHNN cần tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành, tham mưu cho Chính phủ tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lí cho phát triển kinh tế bền vững, kinh tế xanh, trong đó có tín dụng xanh để tạo cơ chế thu hút nguồn lực tài chính, quốc tế cho mục tiêu xanh. NHNN tiếp tục nghiên cứu, làm rõ, rộng, chi tiết hơn các danh mục xanh đã được công bố để NHTM triển khai mạnh mẽ tín dụng xanh. Tiếp tục đẩy mạnh nâng cao nhận thức, phổ biến kiến thức về tín dụng xanh trong hệ thống nhằm nâng cao chất lượng công tác đánh giá các tiêu chuẩn quản lí rủi ro môi trường và xã hội.
Các NHTM nên thành lập những bộ phận đi trước đón đầu để thẩm định rủi ro ESG, đồng thời triển khai áp dụng ESG toàn diện và hiệu quả trong hệ thống, bao gồm: Xây dựng bộ chính sách ESG (Chính sách quản trị rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; Khung tài chính xanh và khung tài chính xã hội, các chính sách ESG trong hoạt động vận hành của ngân hàng...); xác định mục tiêu cụ thể và xây dựng lộ trình triển khai trong ngắn hạn và dài hạn...
Bên cạnh đó, các NHTM cần: (i) Ưu tiên cung ứng vốn và dịch vụ tài chính phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân; nghiên cứu và triển khai các sản phẩm tín dụng xanh, có chính sách ưu đãi, khuyến khích cho vay các dự án, phương án kinh doanh hiệu quả, thân thiện với môi trường... phù hợp với định hướng kinh doanh, phân khúc khách hàng, thị trường mục tiêu cũng như năng lực, thế mạnh của ngân hàng; (ii) Chủ động tìm kiếm, tiếp cận nguồn vốn quốc tế xanh thông qua các bộ, ngành đầu mối hoặc các định chế tài chính, tổ chức phi chính phủ, quỹ tín thác tín dụng xanh... để tăng cường nguồn vốn hỗ trợ cho các dự án xanh. Chuẩn bị để phát hành trái phiếu xanh tăng vốn; (iii) Đẩy mạnh phát triển các sản phẩm, dịch vụ tài chính phục vụ sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, hộ gia đình sản xuất, kinh doanh; (iv) Tiếp tục phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ tài chính - ngân hàng hiện đại, tiện ích dựa trên ứng dụng công nghệ số... (v) Tăng cường năng lực cho cán bộ, nhân viên trong việc thực hiện tín dụng xanh; tổ chức đào tạo, tuyên truyền, phổ biến nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, nhân viên về hoạt động ngân hàng xanh - tín dụng xanh; nâng cao ý thức sử dụng hiệu quả, tiết kiệm năng lượng, các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường; nâng cao trình độ nghiệp vụ thẩm định về rủi ro môi trường và xã hội của các dự án...
1ESG là cụm từ viết tắt bởi E-Environmental (Môi trường); S-Social (Xã hội) và G-Governance (Quản trị doanh nghiệp), bộ tiêu chuẩn để đo lường các yếu tố liên quan đến phát triển bền vững của doanh nghiệp.
2Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đang hoàn thiện dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy định tiêu chí môi trường và việc xác nhận đối với dự án được cấp tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh.
Tài liệu tham khảo:
1. https://chinhphu.vn
2. https://sbv.gov.vn
3. Quyết định số 403/QĐ-TTg ngày 20/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020.
4. Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050.
5. Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018 của Thống đốc NHNN về việc phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam.
Trâm Anh
Hà Nội