Chính sách tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19
01/11/2021 8.075 lượt xem
Dịch Covid-19 bùng phát kể từ đầu năm 2020 đã để lại nhiều hậu quả đối với nền kinh tế Việt Nam khi các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực đều bị ảnh hưởng bởi doanh thu sụt giảm và sự đứt gãy các chuỗi sản xuất, chuỗi phân phối do thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội nghiêm ngặt...
 
Quan điểm về chính sách tín dụng đại trà
 
Dịch Covid-19 bùng phát kể từ đầu năm 2020 đã để lại nhiều hậu quả đối với nền kinh tế Việt Nam khi các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực đều bị ảnh hưởng bởi doanh thu sụt giảm và sự đứt gãy các chuỗi sản xuất, chuỗi phân phối do thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội nghiêm ngặt. Trước tình hình đó, Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều chính sách hỗ trợ nền kinh tế thông qua chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Trong đó, hệ thống ngân hàng là mạch máu của nền kinh tế, đảm nhiệm vai trò luân chuyển dòng vốn, đáp ứng những nhu cầu sản xuất - kinh doanh hợp pháp đã chủ động, linh hoạt có nhiều giải pháp thiết thực để đồng hành cùng cả hệ thống chính trị vào cuộc, giảm thiểu những tác động của dịch bệnh tới các thành phần kinh tế khác nhau. Trong năm 2020, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã liên tiếp ba lần điều chỉnh giảm các mức lãi suất với tổng mức giảm 1,5 - 2,0%/năm đối với lãi suất điều hành, giảm 0,6 - 1,0%/năm trần lãi suất tiền gửi các kỳ hạn dưới 6 tháng; giảm 1,5%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên (hiện ở mức 4,5%/năm). NHNN đã nhanh chóng ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19; Thông tư số 03/2021/TT-NHNN ngày 02/4/2021, Thông tư số 14/2021/TT-NHNN ngày 07/9/2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/ TT-NHNN. Động thái mới nhất, NHNN đã làm việc với các ngân hàng thương mại (NHTM) lớn, tạo đồng thuận trong việc giảm lãi suất thị trường, san sẻ những khó khăn với các doanh nghiệp trong bối cảnh dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp. Những điều chỉnh chính sách này đã đem lại những hiệu quả nhất định. Theo công bố của NHNN, mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm khoảng 1%/năm trong năm 2020 và lãi suất này vẫn tiếp tục giảm tính đến cuối tháng 9/2021 với mức giảm khoảng 0,55%/năm (tổng cộng giảm 1,55%/năm so với trước khi dịch bệnh). Đồng thời, NHNN cũng áp dụng linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ khác nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo thanh khoản cho hệ thống các tổ chức tín dụng và ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối.
 
Cùng với đó, thời gian qua, các NHTM đã chung tay ủng hộ nhiệt thành cho công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 dưới nhiều hình thức như quyên góp tiền vào quỹ mua vaccine, ủng hộ tiền và vật tư y tế cho các địa phương chống dịch, ủng hộ chương trình mua máy tính bảng hỗ trợ việc dạy và học online… Trên phương diện kinh doanh, một số ngân hàng đã cam kết giảm lợi nhuận, nhanh chóng triển khai các biện pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ theo các Thông tư hướng dẫn của NHNN; đồng thuận cao với chủ trương kêu gọi giảm lãi suất để đồng hành cùng đất nước chống dịch với hơn 1,1 triệu khách hàng nhận được hỗ trợ từ các NHTM dưới nhiều hình thức. Những kết quả đó là sự ghi nhận về trách nhiệm xã hội của các NHTM, sẵn sàng hy sinh lợi ích của doanh nghiệp để tăng cường năng lực chống dịch của đất nước và hỗ trợ doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn về tài chính.  
 

 
Để nền kinh tế có thể hồi phục thì điều kiện tiên quyết là các doanh nghiệp phải trở lại hoạt động với trạng thái sản xuất - kinh doanh bình thường, thậm chí còn phải hối hả hơn để bù đắp cho giai đoạn suy giảm. Tuy vậy, trải qua gần hai năm hoạt động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19, tình hình tài chính của nhiều doanh nghiệp đã suy giảm nghiêm trọng. Nhiều luồng ý kiến cho rằng, các NHTM cần phải tiếp tục giảm mạnh lãi suất cho vay, thậm chí, nhiều ý kiến đưa ra quan điểm về chính sách lãi suất 0%, qua đó giảm chi phí tài chính của các doanh nghiệp khi tiếp cận nguồn vốn mới. Tuy nhiên, cần xem xét đến một số khía cạnh khác bên cạnh câu chuyện hỗ trợ đại trà các doanh nghiệp thông qua chính sách lãi suất như sau:
 
Thứ nhất, các NHTM bản chất là các doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Việc yêu cầu các NHTM cắt giảm một phần lợi nhuận để san sẻ cho những doanh nghiệp khác trong nền kinh tế trong bối cảnh dịch bệnh khó khăn bước đầu là cần thiết và đúng đắn nhưng nếu lạm dụng sẽ đi ngược lại so với những quy luật của kinh tế thị trường nói chung. Thực tế các NHTM cũng hiểu rằng, cần phải chia sẻ những khó khăn tài chính với doanh nghiệp, vì đây là những điều kiện bất khả kháng, nằm ngoài khả năng dự báo của cả doanh nghiệp và ngân hàng. Mặt khác, nếu doanh nghiệp phá sản thì bản thân ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn với việc xử lý những khoản nợ xấu dẫn tới lợi nhuận sụt giảm. Do đó, các chính sách miễn, giảm lãi và cơ cấu nợ phù hợp với tình trạng hiện tại để đi đến một giải pháp tài chính linh hoạt hơn cho doanh nghiệp là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc tiếp tục tạo áp lực yêu cầu hệ thống ngân hàng phải giảm lãi suất (là trực tiếp làm giảm lợi nhuận) để hỗ trợ doanh nghiệp sẽ tạo ra những sự can thiệp hành chính vào hoạt động của ngân hàng, hạn chế động lực phát triển và tạo nên sự phân biệt đối xử không cần thiết trong hệ thống các doanh nghiệp. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, các NHTM hiện nay đã là những công ty đại chúng có sự góp vốn của nhiều cá nhân, doanh nghiệp khác, trong đó có cả những đối tác chiến lược nước ngoài. Nếu áp dụng quá nhiều các biện pháp hạn chế sự tự do kinh doanh của ngân hàng sẽ làm giảm sự hấp dẫn của lĩnh vực này ở những giai đoạn phát triển tiếp theo trong tương lai. 
 
Thứ hai, ngành Ngân hàng thực tế đang phải đối mặt với nhiều thách thức và cần chuẩn bị một tâm thế sẵn sàng cho giai đoạn tiếp theo. Đầu tiên là, vấn đề về nợ xấu. Nợ xấu trong hệ thống ngân hàng chắc chắn sẽ gia tăng do tình hình dịch bệnh đã làm trì trệ hoạt động kinh tế, khiến nhiều doanh nghiệp mất khả năng thanh toán toàn bộ hoặc một phần dư nợ tại ngân hàng. Theo các Thông tư hướng dẫn về cơ cấu nợ, các khoản nợ này chưa bị chuyển nhóm và các NHTM được hỗ trợ việc trích lập dự phòng rủi ro trải đều qua 3 năm. Dù vậy, chi phí trích lập dự phòng rủi ro của các NHTM cũng sẽ tăng lên nhanh chóng và lợi nhuận của hệ thống ngân hàng sẽ giảm mạnh. Tiếp đến là, về mức độ rủi ro của hoạt động ngân hàng sau khi dịch bệnh được kiểm soát. Với sức khỏe tài chính yếu hơn và những bất định ở cả thị trường trong và ngoài nước, các hoạt động cho vay của NHTM với doanh nghiệp sẽ trở nên rủi ro hơn nhiều so với giai đoạn trước dịch. Vẫn là cùng một doanh nghiệp đó nhưng những rủi ro về dịch bệnh có thể quay trở lại khiến những phương án kinh doanh của doanh nghiệp đó trở nên kém khả thi hơn so với thời điểm trước khi dịch bệnh. Ở Việt Nam, kênh dẫn vốn chính trong nền kinh tế vẫn là thông qua hệ thống ngân hàng (tỷ lệ tín dụng/GDP đạt khoảng 146% so với thị trường, 17% của thị trường trái phiếu doanh nghiệp và 110% của thị trường cổ phiếu). Hệ thống ngân hàng là mạch máu của nền kinh tế giúp luân chuyển dòng vốn tới các doanh nghiệp và khi hệ thống mạch máu này không khỏe mạnh thì tốc độ chu chuyển vốn sẽ giảm, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn để khôi phục và mở rộng sản xuất - kinh doanh. Do đó, cần phải chuẩn bị cho hệ thống ngân hàng một bước đệm về tài chính tốt để hệ thống ngân hàng làm tốt vai trò dẫn vốn trong nền kinh tế. 
 
Thứ ba, nếu các NHTM chấp nhận giảm lãi suất cho vay nhưng mặt khác lại giảm lãi suất huy động để đảm bảo mục tiêu lợi nhuận (giữ NIM ở mức các ngân hàng chấp nhận được trong bối cảnh doanh thu từ lãi vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu) cũng sẽ gây ra những vấn đề bất ổn đối với kinh tế vĩ mô. Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, huy động vốn từ người nhàn rỗi và cho vay đối với người có nhu cầu vốn. Bản thân ngân hàng không có đủ vốn tự có để đáp ứng nhu cầu của người vay mà nguồn tài trợ chính vẫn là tiền gửi. Điều quyết định tới hành vi gửi tiền chính là lãi suất nhưng là lãi suất thực, không phải lãi suất danh nghĩa niêm yết. Lãi suất thực được hiểu đơn giản là lãi suất danh nghĩa điều chỉnh cho tỷ lệ lạm phát. Có nhiều tranh cãi về lãi suất thực nhưng nếu để làm căn cứ đầu vào cho việc ra quyết định đầu tư tiền nhàn rỗi thì lãi suất thực cần xem xét là lãi suất danh nghĩa điều chỉnh cho tỷ lệ lạm phát kỳ vọng trong suốt kỳ hạn đang xem xét. NHNN đã thành công trong việc kiểm soát lạm phát giai đoạn 2016 - 2020 và hướng tới thành công trong việc giữ lạm phát năm 2021 ở mức mục tiêu dưới 4%. Tuy nhiên, lạm phát trong giai đoạn chịu nhiều rủi ro cả ở thị trường trong nước và quốc tế nên kỳ vọng lạm phát trong thời gian tới có thể sẽ xoay quanh mức mục tiêu 4% mà Quốc hội và Chính phủ giao cho NHNN. Nếu xét đến lãi suất huy động hiện tại khoảng 5 - 6% (trung bình khoảng 5,9%, thấp nhất 4,4%, cao nhất 6,8%) kỳ hạn 12 tháng thì nếu các NHTM giảm lãi suất huy động 2% tức là lãi suất huy động thực sẽ giảm về 0% thậm chí là âm, tác động trực tiếp tới quyết định gửi tiền của các chủ thể kinh tế. Khi lãi suất huy động thực âm, lãi tiền gửi không đủ bù đắp cho tỷ lệ lạm phát, người gửi tiền sẽ có xu hướng thay vì mua các tài sản tài chính (ví dụ như tiết kiệm tại ngân hàng) chuyển sang mua các tài sản hữu hình có tính tích trữ để phòng ngừa lạm phát như vàng, bất động sản hoặc chuyển qua các tài sản tài chính có mức sinh lời cao hơn (đi kèm rủi ro cao hơn) như trái phiếu doanh nghiệp hoặc cổ phiếu. Điều này dẫn tới hai vấn đề đối với nền kinh tế: Một là, hệ thống ngân hàng thiếu vốn để cho vay, ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp; hai là, các thị trường tài sản tăng trưởng quá nóng so với tăng trưởng kinh tế thực, tiềm ẩn nhiều rủi ro bong bóng tài sản. 
 
Chính sách tín dụng có chọn lọc
 
Chính phủ vẫn cần nhanh chóng đưa ra những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp để chuẩn bị cho một giai đoạn phục hồi kinh tế có hiệu quả sau khi dịch bệnh được kiểm soát, nhưng việc yêu cầu hệ thống NHTM giảm lãi suất cho vay sâu và nhanh chóng một cách đại trà cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với hệ thống ngân hàng trong tương lai. Một trong những giải pháp thay thế là sử dụng chính sách tín dụng ưu đãi với 2 điểm khác biệt: có sự tham gia của ngân sách Nhà nước và có tính chọn lọc. Ở nhiều quốc gia, chính sách tài khóa nghịch chu kỳ là chính sách chủ yếu thông qua các biện pháp trực tiếp làm tăng chi tiêu và giảm nguồn thu của Chính phủ như hỗ trợ tiền mặt cho người dân hay giảm thuế và cả các biện pháp gián tiếp như các khoản cho vay hay bảo lãnh Chính phủ. Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam, tỷ lệ bội chi ngân sách sau khi điều chỉnh GDP vẫn còn dư địa và có thể được sử dụng vào mục đích hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua chính sách tín dụng. Tính chọn lọc của chính sách tín dụng được xây dựng nhằm tập trung vào một khu vực của nền kinh tế và lan tỏa tới các khu vực khác thông qua các liên kết kinh tế. Sử dụng một chính sách tín dụng chọn lọc có hiệu quả sẽ làm tăng hiệu quả sử dụng nguồn hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước, dễ kiểm soát mục đích sử dụng vốn và tránh tình trạng trục lợi chính sách khi thực hiện đại trà. 
 
Lựa chọn đối tượng nhận được hỗ trợ từ chính sách tín dụng ưu đãi là một vấn đề cần phải được cân nhắc và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành và đơn vị chức năng. Những doanh nghiệp được nhận hỗ trợ sẽ phải đáp ứng được các tiêu chí cả về quy mô và ngành nghề:
 
Một là, về tiêu chí quy mô, các doanh nghiệp được hỗ trợ cần phải là các doanh nghiệp lớn chứ không phải là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chính sách cần phải hướng vào hỗ trợ doanh nghiệp lớn để tận dụng lợi thế kinh tế về quy mô, nguồn lực tài chính, công nghệ, khả năng lan tỏa của nhóm doanh nghiệp này dựa trên mạng lưới sẵn có. Khi doanh nghiệp lớn được hỗ trợ để hoạt động ổn định trở lại sẽ kéo theo các doanh nghiệp nhỏ và vừa là các doanh nghiệp vệ tinh. Các doanh nghiệp lớn cũng là những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động; hỗ trợ phục hồi sản xuất tại các doanh nghiệp lớn tức là gián tiếp hỗ trợ sinh kế cho hàng trăm ngàn lao động mất việc do dịch, đảm bảo cuộc sống cho nhiều người dân. Về mặt rủi ro, các doanh nghiệp lớn là những doanh nghiệp có hệ thống quản trị doanh nghiệp tốt hơn, có thị phần vững chắc và kế hoạch phục hồi kinh doanh cũng sẽ khả thi hơn những doanh nghiệp nhỏ giúp giảm bớt rủi ro cho hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, việc tập trung vốn hỗ trợ các doanh nghiệp lớn cũng sẽ đảm bảo được nguồn lực của các bộ, ngành liên quan tham gia quản lý gói hỗ trợ để thẩm định, giám sát việc sử dụng vốn đúng mục đích, đảm bảo chính sách đúng và trúng với mục tiêu ban đầu. 
 
Hai là, về tiêu chí ngành nghề, các doanh nghiệp được hỗ trợ cần phải hoạt động trong những ngành có tính lan tỏa cao, có mối liên kết kinh tế với nhiều ngành nghề khác, đặc biệt là những ngành sản xuất trong nước. Thông qua những mối liên kết kinh tế đó, những doanh nghiệp được hỗ trợ có thể tái khởi động chuỗi sản xuất, phân phối và bán hàng mới, tạo ra nhu cầu đối với nhiều ngành nghề khác. Ví dụ như hỗ trợ doanh nghiệp logistic, qua đó, có thể phục hồi hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực vận tải, du lịch, xuất khẩu hay hỗ trợ doanh nghiệp dệt may có thể khơi thông nhu cầu cho ngành sản xuất bông, cơ khí, hóa chất…
 
Ba là, về tiêu chí thị trường, cần ưu tiên chọn các doanh nghiệp nằm trong chuỗi giá trị, đặc biệt là các doanh nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong chuỗi và doanh nghiệp có thị phần xuất khẩu lớn, đảm bảo duy trì được đơn hàng và lợi thế cạnh tranh quốc gia. 
 
Bốn là, về tiêu chí khoa học công nghệ, cần ưu tiên hỗ trợ các doanh nghiệp lớn có khả năng nghiên cứu và ứng dụng, triển khai đổi mới sáng tạo tốt hơn, tạo ra được lợi thế cạnh tranh đi đầu về năng lực sản xuất (hoặc rút ngắn khoảng cách) với các doanh nghiệp hàng đầu trên thế giới. Từ đó, giúp nền kinh tế tăng tính tự chủ, giảm sự lệ thuộc vào thị trường quốc tế. 
 
Tùy vào khả năng cân đối của ngân sách Nhà nước mà NHNN, Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan thống nhất về bộ tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp được hỗ trợ, giao trách nhiệm giải ngân nhanh chóng và giám sát việc sử dụng vốn vay cho các NHTM và sớm có những đánh giá về hiệu quả chính sách để kịp thời có những điều chỉnh cần thiết. Thậm chí, nếu chính sách có hiệu quả tốt, có thể tăng quy mô, mở rộng đối tượng ra thêm những khu vực khác của nền kinh tế để thúc đẩy sự phục hồi kinh tế toàn diện, có chất lượng nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội của cả giai đoạn 2021 - 2025.

Đào Minh Thắng

Vụ Chính sách tiền tệ, NHNN
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Bàn về một số điểm mới của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
25/04/2024 77 lượt xem
Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 được Quốc hội thông qua ngày 18/01/2024. Nội dung Luật có nhiều điểm mới tích cực, được đánh giá sẽ góp phần đảm bảo hoạt động tài chính của các TCTD phát triển lành mạnh, ổn định.
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
22/04/2024 320 lượt xem
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động ngân hàng cũng không nằm ngoài sự chuyển đổi đó. Tại Việt Nam, những năm gần đây, ngành Ngân hàng luôn là một trong những ngành có tỉ lệ chuyển đổi số nhanh nhất.
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
17/04/2024 654 lượt xem
Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật để thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư trong nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế, hình ảnh của nước ta trên trường quốc tế.
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính -  Một số khuyến nghị cho Việt Nam
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính - Một số khuyến nghị cho Việt Nam
12/04/2024 1.094 lượt xem
Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia, góp phần thúc đẩy và mở rộng khả năng tiếp cận tài chính của dân số, qua đó khuyến khích tiết kiệm và đầu tư đối với hộ gia đình và doanh nghiệp, tạo cơ hội phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ, mở rộng khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm và thu nhập, góp phần hạn chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính.
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
16/03/2024 3.620 lượt xem
Năm 2024, kinh tế thế giới dự báo tiếp tục khó khăn dưới tác động của điều kiện tài chính thắt chặt, mặt bằng lãi suất còn cao, xung đột địa chính trị, rủi ro tài chính gia tăng, lạm phát có dấu hiệu chậm lại nhưng vẫn cao…; ở trong nước, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức do bối cảnh cầu thế giới, thương mại quốc tế chậm phục hồi, bảo hộ thương mại gia tăng; sản xuất, kinh doanh tiếp tục khó khăn, mức độ hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn tương đối thấp; những khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản vẫn chưa được xử lý căn cơ, đòi hỏi các cấp, bộ, ngành Trung ương và địa phương tiếp tục triển khai nhiều giải pháp tổng thể hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
15/03/2024 3.167 lượt xem
Ngày 07/11/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước, có hiệu lực thi hành từ ngày 22/12/2023.
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
14/03/2024 6.551 lượt xem
Giai đoạn từ năm 2022 đến nay, trước bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) liên tục tăng lãi suất, NHNN đã điều hành tỷ giá tương đối ổn định, đặc biệt là tỷ giá với các ngoại tệ như Đô la Mỹ, Euro và các ngoại tệ khác tại các quốc gia có quan hệ giao thương đáng kể với Việt Nam nhằm duy trì ổn định vĩ mô trong nước, hỗ trợ đầu tư, sản xuất phát triển.
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
13/03/2024 3.200 lượt xem
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân đối với Dự thảo Nghị định quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng (sau đây gọi tắt là Dự thảo Nghị định).
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
06/03/2024 3.278 lượt xem
Một trong những sứ mệnh của chuyển đổi số là phổ cập, cá nhân hóa dịch vụ số như giáo dục, y tế, ngân hàng để hướng tới người dân. Ngành Ngân hàng luôn phấn đấu tạo điều kiện thuận lợi cho người dân sử dụng dịch vụ trên môi trường điện tử, trong đó có hướng đến phổ cập tài chính tới vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
05/03/2024 9.013 lượt xem
Ngày 18/01/2024, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 với 15 chương, 210 điều. Luật Các TCTD năm 2024 đã bám sát quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước; khắc phục các vướng mắc, bất cập hiện tại; tham khảo thông lệ, kinh nghiệm quốc tế và phù hợp chiến lược phát triển ngành Ngân hàng. Xuất phát từ đó, bài viết tập trung làm rõ những điểm mới, nổi bật của Luật này.
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/02/2024 3.234 lượt xem
Trải qua hơn 10 năm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, công tác thống kê tiền tệ phục vụ điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có nhiều bước tiến đáng kể.
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
24/02/2024 4.391 lượt xem
Năm 2023 vừa qua đã chứng kiến những biến động mạnh mẽ trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) trên thế giới, nổi bật là việc các ngân hàng trung ương (NHTW) liên tục tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát.
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
13/02/2024 3.193 lượt xem
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các nước đã thừa nhận sự cần thiết của chính sách an toàn vĩ mô (ATVM) trong ổn định tài chính và đặt chính sách ATVM vào vị trí trung tâm của sự tương tác giữa các chính sách kinh tế vĩ mô với chính sách an toàn vi mô.
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
11/02/2024 4.053 lượt xem
Nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2023 được triển khai trong bối cảnh tình hình thế giới phát sinh nhiều biến động, diễn biến phức tạp, khó dự báo. Căng thẳng địa chính trị, tranh chấp giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, xung đột giữa Nga - Ukraine và Israel - Hamas diễn biến bất ngờ, lạm phát và giá nhiên liệu tăng cao khiến đà phục hồi của kinh tế thế giới chậm lại.
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
07/02/2024 3.516 lượt xem
Thời gian qua, tín dụng tiêu dùng phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 20%/năm, từng bước góp phần giúp người dân, đặc biệt là những người yếu thế tiếp cận được các dòng vốn chính thức; hạn chế tình trạng tín dụng đen.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?