Chuyển đổi số là xu hướng tất yếu của nền kinh tế trong thời đại cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 đang diễn ra trên toàn thế giới. Cùng với xu hướng phát triển của CMCN 4.0, các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã triển khai và đạt được một số thành công nhất định trong số hóa và ứng dụng công nghệ hiện đại trong các hoạt động tài chính - ngân hàng.
Do đó, ngày càng nhiều các NHTM đã xác định được tầm quan trọng và tiến hành xây dựng chiến lược phát triển mô hình “ngân hàng số”. Nghiên cứu này làm rõ (i) Quan điểm về sự phát triển ngân hàng số, trong đó, có các xu hướng phát triển ngân hàng số tiêu biểu; (ii) Ngân hàng số thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt trong bối cảnh thanh toán xuyên biên giới trên cơ sở đảm bảo tuân thủ đúng các quy định của Việt Nam và quốc tế về hạn mức tiêu dùng cá nhân tại nước ngoài, Luật Phòng chống rửa tiền và các quy định pháp luật khác liên quan; (iii) Khó khăn và thách thức triển khai ngân hàng số nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt; và (iv) Một số đề xuất về định hướng phát triển ngân hàng số trong thanh toán.
1. Sự phát triển ngân hàng số
Theo Gaurav Sarma (2017), Ngân hàng số (Digital Banking) là một hình thức ngân hàng số hóa tất cả những hoạt động và dịch vụ ngân hàng truyền thống. Nói cách khác, tất cả những gì khách hàng có thể thực hiện ở các chi nhánh ngân hàng truyền thống được số hóa và tích hợp vào một ứng dụng ngân hàng số duy nhất, và thông qua ứng dụng này khách hàng không cần phải đến chi nhánh ngân hàng mà vẫn có thể thực hiện được tất cả các giao dịch, đồng thời các hoạt động của ngân hàng như quản lý rủi ro, nguồn vốn, phát triển sản phẩm, marketing, quản lý bán hàng… cũng được số hóa. Trong khi E-banking là hệ thống dịch vụ ngân hàng điện tử (bao gồm các dịch vụ như Internet Banking, SMS Banking, Mobile Banking) được tạo ra để bổ sung cho các dịch vụ trên nền tảng ngân hàng truyền thống (digital out) thì Digital Banking là một loại hình ngân hàng kỹ thuật số có đầy đủ chức năng của một ngân hàng, từ cơ cấu tổ chức đến quy trình làm việc, sản phẩm dịch vụ, chứng từ và phương thức giao dịch với khách hàng (bao gồm cả digital in và digital out).
Digital Banking là đòi hỏi cao về công nghệ bao gồm sự đổi mới trong dịch vụ tài chính cho khách hàng xung quanh các chiến lược về ứng dụng kỹ thuật số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), thanh toán, RegTech, dữ liệu lớn, công nghệ chuỗi khối (blockchain), API, kênh phân phối và công nghệ (American banker, 2018). Việc phát triển ngân hàng số giúp các ngân hàng tiết kiệm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh, nâng cao tính tuân thủ và minh bạch trong hoạt động kinh doanh. Đối với khách hàng, ngân hàng số giúp khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng thuận tiện, an toàn với tiện ích tối đa, tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính, hỗ trợ phát triển kinh doanh trực tuyến.
Đến thời điểm 2019, theo ông Phạm Tiến Dũng, Vụ trưởng Vụ Thanh toán - Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hiện có tổng cộng 45 triệu tài khoản cá nhân tại Việt Nam (đã loại bỏ số trùng), tương đương khoảng một nửa dân số Việt Nam. Thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam thời gian gần đây đã có sự chuyển biến tích cực với những con số đáng khích lệ. Theo thống kê của Cục Thương mại Điện tử và Kinh tế số (Bộ Công thương) cho thấy 6 tháng đầu năm 2019 giá trị giao dịch qua Internet, di động tăng tới 238%. Còn theo thống kê của NHNN trong 9 tháng đầu năm 2019, giá trị giao dịch qua POS tăng 36,5% so với cùng kỳ năm 2018.
Cùng với xu hướng phát triển của CMCN 4.0, các NHTM Việt Nam đã triển khai và đạt được một số thành công nhất định trong số hóa và ứng dụng công nghệ hiện đại trong các hoạt động tài chính - ngân hàng như: Digital banking/Digital Lab; Timo Bank, ATM + LiveBank... Một số NHTM đã hợp tác thành công với các công ty Fintech để đưa công nghệ mới, hiện đại vào hoạt động thanh toán trên thiết bị di động như áp dụng sinh trắc học, sử dụng QR code, Tokenization, công nghệ mPOS, ví điện tử... Các NHTM cũng đã thực hiện những bước đầu tiên của quá trình nghiên cứu và áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI), tự động hóa bằng robot (RPA), chuỗi khối (Blockchain)... Các xu hướng phát triển ngân hàng số tiêu biểu gồm:
- Ứng dụng Trí tuệ nhân tạo (AI) trong ngân hàng: Hiện nay, một số ngân hàng đã triển khai AI, tiêu biểu là TPBank với ứng dụng trợ lý ảo T’Aio trên Facebook Messenger và VietABank với Chatbox hoạt động trên Fanpage, các chức năng chủ yếu là: Tư vấn khách hàng các thông tin về lãi suất, tỷ giá, sản phẩm, biểu phí…, giải đáp khách hàng các thắc mắc về địa điểm, phí giao dịch, quy trình mở thẻ. Bên cạnh đó, có một số ngân hàng đã tự động hóa các quy trình đăng ký, thay đổi dịch vụ thông qua triển khai SMART FORM, tiêu biểu là MBBank (thí điểm từ tháng 5/2017), nhờ đó làm giảm thời gian thực hiện tại quầy xuống còn trung bình 3 - 5 phút (không bao gồm thời gian chờ đợi, scan và phê duyệt hồ sơ). Ngoài ra, một số ngân hàng sử dụng phần mềm để phân tích thông tin của hàng triệu khách hàng, đánh giá và dự báo khả năng chi trả nợ của họ để đưa ra quyết định cho vay một cách chính xác như BIDV sử dụng phần mềm tích hợp Watson do Five 9 thiết kế.
- Kết hợp cung cấp dịch vụ ngân hàng với các công ty công nghệ lớn: Các dịch vụ tài chính, ngân hàng do các Big tech cung cấp phần lớn chưa được phổ biến rộng rãi. Một số thương hiệu toàn cầu đã thâm nhập thị trường Việt Nam là Samsung Pay, Amazon (thông qua thỏa thuận cung cấp dịch vụ thương mại điện tử cho VECOM [1]), Alibaba (thông qua sở hữu 83% vốn của Lazada) và JD.com (thông qua khoản đầu tư 50 triệu USD vào Tiki). Các tập đoàn công nghệ lớn tại Việt Nam (FPT, Viettel, CMC, VNG, BKAV, VC Corp) chủ yếu vẫn tập trung vào lĩnh vực chính là công nghệ, một số ít tiếp cận mảng cung ứng dịch vụ ngân hàng thông qua phát triển công cụ thanh toán điện tử, như WePay (VC Corp), Zalo Pay (VNG), Bảo Kim (VNP)..
- Chuyển đổi ngân hàng lõi và Cloud: Việc chuyển đổi này còn chậm chạp do thiếu nguồn lực về vốn hoặc đã triển khai nhưng mang tính hình thức và chưa đem đến hiệu quả tương xứng. Nguyên nhân do trong những năm qua, các NHTM phải ưu tiên nguồn lực cho xử lý các vấn đề về xử lý nợ xấu, đảm bảo thanh khoản... hệ thống corebanking tương đối lạc hậu, không đủ điều kiện để tích hợp ứng dụng số hóa dựa trên dữ liệu lớn, hoặc có chuyển đổi nhưng không mua hết các tính năng của corebanking hiện đại. Về tích hợp dữ liệu trên core, đa phần các ngân hàng chưa triển khai điện toán đám mây do đặc trưng dữ liệu nhạy cảm, hệ thống dữ liệu phức tạp và chưa đồng bộ. Hiện chỉ có một số ít ngân hàng đã hoàn tất việc đưa dữ liệu lên private cloud như VietABank (từ năm 2014 - 2017).
- Phát triển các ứng dụng ngân hàng số và ví điện tử: Nhiều ngân hàng thể hiện sự tích cực trong cung cấp các dịch vụ ngân hàng ứng dụng công nghệ số hiện đại như: VPBank với dịch vụ ngân hàng số Timo Bank và ứng dụng ngân hàng số YOLO; Vietcombank với không gian giao dịch công nghệ số Digial Lab; MBBank cho phép khách hàng chuyển tiền qua ứng dụng Facebook; TPBank với việc cho ra mắt dịch vụ ngân hàng tự động LiveBank; BIDV đưa ra thị trường ứng dụng ngân hàng di động BIDV SmartBanking với tiện ích QR Pay; Sacombank với ứng dụng thanh toán Sacompay, sử dụng phương thức xác thực 2 yếu tố; OCB với ứng dụng OCB OMNI; Techcombank ra mắt sản phẩm thẻ có công nghệ thanh toán không tiếp xúc; hay LienVietPostBank với thẻ phi vật lý Ví Việt.
Trong những năm gần đây, LienVietPostBank chú trọng đầu tư xây dựng nền tảng Ngân hàng số trở thành kênh giao dịch quan trọng dựa trên nền tảng thẻ phi vật lý Ví Việt. Tính đến 24/12/2019, Ví Việt đã có hơn 37.000 điểm chấp nhận thanh toán và hơn 2,7 triệu người sử dụng trên toàn quốc. Trong thời gian tới, LienVietPostBank dự kiến ra mắt dịch vụ LienViet24h là ứng dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến 24/7 bao gồm 3 chức năng chính: Ngân hàng số, Thẻ (vật lý và phi vật lý), Ví điện tử và đồng thời tích hợp với hệ sinh thái hỗ trợ người dùng và các điểm kinh doanh trong việc tìm kiếm thông tin, giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ...
Cùng với xu hướng phát triển của CMCN 4.0, các NHTM Việt Nam đã triển khai và đạt được một số thành công nhất định trong số hóa và ứng dụng công nghệ hiện đại
2. Ngân hàng số với thanh toán không dùng tiền mặt
Xu hướng sử dụng điện thoại thông minh ngày càng tăng cùng môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi đang đẩy nền kinh tế đến trạng thái ít phụ thuộc vào tiền mặt hơn và thúc đẩy thanh toán kỹ thuật số. Thói quen người tiêu dùng đang thay đổi theo hướng sử dụng các giải pháp nhanh và tiện lợi hơn trong mọi lĩnh vực, các sáng kiến của các doanh nghiệp và chính phủ nhằm thúc đẩy xã hội không tiền mặt, đổi mới công nghệ và bao gồm tài chính là động lực chính của tăng trưởng giao dịch không dùng tiền mặt tại các thị trường mới nổi. Sự phát triển của điện thoại thông minh đang tạo ra các phương thức thanh toán cách mạng hóa cùng với những đổi mới trong công nghệ bảo mật và truy cập thanh toán như mã hóa chi tiết thẻ để giảm gian lận, xác thực đa yếu tố sinh trắc học, tiêu chuẩn EMV để xác thực người dùng, đầu đọc có khả năng thanh toán NFC tại cửa hàng thương mại, bảo mật phần cứng…
Sự xuất hiện của các tổ chức tài chính phi ngân hàng cùng với các nhà bán lẻ, doanh nghiệp thương mại điện tử và sự ra đời của các tính năng như xác thực sinh trắc học phải đáp ứng được mong đợi thay đổi giải pháp thanh toán của khách hàng. Người tiêu dùng ngày nay mong đợi một trải nghiệm kỹ thuật số liền mạch từ mọi tương tác họ có với doanh nghiệp trong thế giới ảo. Những bước tiến vượt bậc trong công nghệ kỹ thuật số đã mở đường cho nhiều xu hướng phát triển các phương thức thanh toán mới, ứng dụng công nghệ cao như thanh toán thẻ phi vật lý, ví điện tử, tiền điện tử, mã QR... Thực tế, thanh toán chính là khâu mấu chốt giúp hoàn thiện quy trình kinh doanh và thúc đẩy phát triển kinh tế thương mại. Nắm bắt được nhu cầu của doanh nghiệp (mang lại cho khách hàng nhiều lựa chọn thanh toán) và của khách hàng (tiết kiệm thời gian, chi phí và thuận tiện), các tổ chức tài chính - ngân hàng đều nhanh chóng ứng dụng các bước tiến của công nghệ số để đưa ra nhiều loại hình thanh toán điện tử mới, hiện đại, mang lại lợi ích cho tất các bên liên quan.
2.1. Thực trạng triển khai thanh toán không dùng tiền mặt trên thế giới
Trên thế giới đã có rất nhiều tổ chức tài chính - ngân hàng vận dụng công nghệ vào cung cấp dịch vụ thanh toán số, thanh toán không dùng tiền mặt cho khách hàng của mình, trong lãnh thổ quốc gia và cả xuyên biên giới:
- Ứng dụng công nghệ blockchain: Tháng 4/2019, JPMorgan Chase (JPM) tạo ra JPM Coin - mã tiền kỹ thuật số để thực hiện thanh toán tức thời dựa trên công nghệ blockchain có tính bảo mật cao. Với chuẩn quy đổi 1 JPM Coin = 1 USD, giá trị của JPM Coin sẽ không dao động và được coi là “đồng tiền giữ giá”. Khách hàng sẽ được phát hành tiền sau khi gửi USD tại ngân hàng; sau khi sử dụng mã thông báo để thanh toán hoặc mua bảo mật trên blockchain, ngân hàng sẽ hủy đi các đồng tiền này và trả lại cho khách hàng một số USD tương xứng. Khách hàng của JPMorgan Chase sử dụng JPM Coin để thanh toán quốc tế giữa doanh nghiệp với tổ chức tài chính, giao dịch chứng khoán, sử dụng để chuyển khoản cho nhà cung cấp/công ty con trên toàn thế giới, thanh toán. JPM Coin giúp giải bài toán thanh toán tức thời (real-time) và bất kể thời gian nào, đồng thời đảm bảo được tính “giữ giá” của đồng tiền.
Tháng 10/2019, Ngân hàng quốc gia Campuchia (NBC) hợp tác với Maybank (Malaysia) phát triển hệ thống ứng dụng công nghệ blockchain để kết nối thanh toán và chuyển tiền xuyên biên giới giữa 2 quốc gia phục vụ chính cho cộng đồng người lao động Campuchia làm việc tại Malaysia chuyển thu nhập về cho gia đình. Hệ thống thanh toán hiện có của NBC (Bakong) tích hợp với nền tảng số Maybank2u của Maybank cho phép người dùng có thể sử dụng ứng dụng trên điện thoại di động để chuyển tiền sử dụng mã QR hoặc số điện thoại thay cho tài khoản ngân hàng. Thực tế, ngân hàng NBC đã thử nghiệm ứng dụng blockchain trong các giao dịch thanh toán bán lẻ trong nước và thu được kết quả rất tích cực. Theo Ngân hàng TMCP Acleda (Campuchia) - một trong các ngân hàng tham gia hệ thống chuyển tiền Bakong, mỗi ngày có khoảng 17 triệu USD được xử lý qua hệ thống này.
- Thanh toán bằng QRCode: Tháng 10/2019, Ngân hàng E-Sun (Đài Loan) hợp tác với tập đoàn Liquid (Singapore) mở hành lang thanh toán QR giữa 2 thị trường. Theo đó, người du lịch giữa hai nước có thể sử dụng ứng dụng di động để thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt tại các điểm chấp nhận thanh toán (ĐCNTT) trong hệ thống. Giao dịch được đảm bảo với độ bảo mật cao, bằng cách cung cấp thông báo giao dịch tức thời và tính năng xem ngược được lịch sử giao dịch. E-Sun là ngân hàng có hệ thống ĐCNTT rộng khắp cả nước, bao gồm cả chuỗi cửa hàng tiện ích và các cửa hàng được khách du lịch ưa chuộng. Với ứng dụng thanh toán này, sẽ hỗ trợ rất tốt vào thúc đẩy giao dịch nhờ tính ứng dụng và độ bảo mật cao cho khách hàng. Bên cạnh đó, hệ thống ĐCNTT của ngân hàng cũng dễ dàng tiếp cận người dùng với thông tin về các chương trình khuyến mãi, quảng cáo. Ngoài Singapore, tập đoàn Liquid đã mở rộng quan hệ chấp nhận thanh toán QR cho các tổ chức tài chính tại 7 thị trường châu Á khác gồm Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Hong Kong, Indonesia, Thái Lan và Campuchia.
- Thanh toán qua ví điện tử: Đầu tháng 11/2019, Công ty Dịch vụ Tài chính Ant (Ant Financial Services Group) chính thức ra mắt ví điện tử Alipay phiên bản quốc tế, cho phép du khách đến Trung Quốc đại lục sử dụng ứng dụng để thanh toán trực tuyến với thời gian truy cập tối đa 90 ngày. Thay vì phải đăng ký và kết nối với số điện thoại và tài khoản ngân hàng địa phương như trước, du khách có thể tải ứng dụng Alipay phiên bản quốc tế trên iOS và Android, đăng ký sử dụng với số điện thoại sử dụng tại nước ngoài, nạp tiền vào thẻ trả trước do Ngân hàng Thượng Hải phát hành (tối thiểu 14USD và tối đa 285USD) bằng thẻ tín dụng/thẻ ghi nợ quốc tế. Theo Alipay, người dùng có thể nạp tiền nhiều lần, tuy nhiên, sẽ chịu một mức trần “hợp lý” mà phía Công ty này không tiết lộ. Sau 90 ngày, số tiền chưa sử dụng hết (nếu có) sẽ được tự động hoàn lại vào tài khoản người dùng. Cũng trong đầu tháng 11/2019, Tencent Holdings, tập đoàn sở hữu ứng dụng thanh toán WeChat Pay cũng chính thức ra mắt dịch vụ hỗ trợ thanh toán trực tuyến cho du khách tới Trung Quốc, bằng cách kết nối trực tiếp thẻ tín dụng quốc tế vào ứng dụng thanh toán của mình.
Trong bối cảnh xu hướng số lượng người Trung Quốc đi du lịch các nước phương Tây ngày một tăng cao, từ năm 2018, Tập đoàn Alibaba (sở hữu Alipay) và Tencent Holdings (sở hữu WeChatPay) đã đẩy mạnh hoạt động trên thị trường quốc tế, nhằm cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến, thuận tiện, quen thuộc cho du khách châu Á nói chung và Trung Quốc nói riêng tại các nước phương Tây. Cụ thể, trong năm 2018, Alipay chính thức đặt quan hệ đối tác với các công ty công nghệ tài chính hoặc chuỗi bán lẻ tại các nước sở tại để cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế, như Motion Pay tại Canada, FreedomPay tại Bắc Mỹ, Openday tại Mexico, hay MCM tại châu Âu. Trong khi đó, chủ sở hữu WeChat Pay cũng có thể sử dụng dễ dàng ứng dụng tại các thị trường như Ý, Pháp, UAE, Liên Bang Nga, Sri Lanka, và nhiều nước khác tại châu Âu. Tính riêng trong tháng 4/2019, số lượng ĐCNTT tại châu Âu chấp nhận thanh toán bằng WeChat Pay cho du khách Trung Quốc tăng 3.5 lần so với cùng kỳ năm 2018. Cả WeChat Pay và Alipay đều đã hoàn thành tích hợp hệ thống thanh toán với chuỗi bán lẻ 7-Eleven, hãng hàng không Air Canada (phục vụ đặt vé trực tuyến) và 02 công ty thanh toán hàng đầu thế giới CANCAN và WorldFirst (mở rộng danh sách ĐCNTT của Alipay và WeChat Pay trên khắp châu Âu và thế giới).
2.2. Thực tế triển khai tại Việt Nam
Cùng với sự gia tăng các hoạt động giao lưu và thương mại quốc tế như WTO, FTAs... và các ứng dụng trực tuyến nhưng không có hình thức hiện diện thương mại tại Việt Nam như dịch vụ đặt xe, đặt phòng khách sạn..., giao dịch thanh toán với ngân hàng nước ngoài và các giao dịch thanh toán điện tử xuyên biên giới cũng tăng trưởng ngày càng cao. Trong năm 2019, các NHTM Việt Nam liên tục hợp tác liên kết với đối tác ngoại để triển khai các hình thức chuyển tiền quốc tế mới, một số trường hợp điển hình là:
- Tháng 7/2019, TPBank hợp tác với UnionPay (Trung Quốc) về việc liên thông thanh toán cho phép hàng triệu khách hàng của UnionPay tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan... khi sang Việt Nam du lịch có thể dễ dàng thanh toán tại các ĐCNTT mã QR Code, mPOS...
- Tháng 9/2019, LienVietPostBank ký thỏa thuận hợp tác với Công ty BC
Card - đơn vị triển khai các dịch vụ về thẻ lớn nhất Hàn Quốc. Theo đó, hai bên cùng nghiên cứu và phát triển hệ thống cung cấp dịch vụ thanh toán bằng mã QR trên Smartphone. Khách hàng Việt Nam sử dụng Smartphone được cài đặt thẻ phi vật lý Ví Việt của LienVietPostBank có thể mua sắm tại các cửa hàng là ĐCNTT của BC Card tại Hàn Quốc, bao gồm hầu hết các điểm mua sắm lớn, cửa hàng miễn thuế, trung tâm thương mại… Giải pháp này hứa hẹn rất nhiều tiềm năng với thị trường Việt Nam khi số lượng người dân sở hữu thẻ tín dụng/thẻ quốc tế chỉ chiếm hơn 10% dân số và số lượng người Việt Nam đi du lịch, làm việc Hàn Quốc ngày càng tăng. Dự kiến, hai bên sẽ triển khai chính thức dịch vụ vào năm 2020, trên cơ sở đảm bảo tuân thủ đúng các quy định của Việt Nam và Hàn Quốc về hạn mức tiêu dùng cá nhân tại nước ngoài, Luật Phòng chống rửa tiền và các quy định Pháp luật khác liên quan của hai nước.
- Tháng 10/2019, BIDV và Công ty cổ phần Thanh toán quốc gia Việt Nam (NAPAS) hợp tác với Tổ chức Thẻ nội địa Liên bang Nga cho phép du khách Nga đến Việt Nam có thể quẹt thẻ MIR (thẻ nội địa mang thương hiệu quốc gia của Liên bang Nga) tại toàn bộ hệ thống POS của BIDV trên toàn quốc, BIDV cũng đang nghiên cứu phương án triển khai chấp nhận thanh toán thẻ nội địa BIDV tại Liên bang Nga.
3. Khó khăn và thách thức trong triển khai ngân hàng số nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt
- Cơ sở pháp lý: Quy định pháp lý và sự điều chỉnh của nhiều cơ quan quản lý không theo kịp công nghệ mới nên hạn chế/làm chậm phát triển ứng dụng công nghệ cao và Ngân hàng số (Orakwue, 2017). Từ đó, có thể dẫn đến rủi ro pháp lý cho các Ngân hàng/Big tech/Fintech khi triển khai các ứng dụng công nghệ cao. Các quy định quản lý thông tin giao dịch tài khoản, quy định pháp luật về thuế, phòng chống rửa tiền, quy định bảo mật thông tin khách hàng… cần phải bổ sung/chỉnh sửa phù hợp với công nghệ mới. Ở Việt Nam, cần nghiên cứu, bổ sung các quy định đồng bộ về eKYC, bảo vệ quyền lợi khách hàng, các loại tài khoản thanh toán…
- Thách thức với công tác quản trị rủi ro: Do ngân hàng số có những đặc thù riêng biệt trong triển khai hoạt động về công nghệ, kênh phân phối cũng như quy trình, từ đó dẫn tới những rủi ro chính đối với một NHTM muốn chuyển đổi sẽ bao gồm những rủi ro chung của hoạt động ngân hàng cũng như rủi ro nội tại của hoạt động ngân hàng số. Tổ chức Tài chính quốc tế (MasterCard Foundation và IFC, 2018) chỉ ra những loại rủi ro chính khi triển khai dịch vụ tài chính/ngân hàng số như sau: (1) Rủi ro chiến lược; (2) Rủi ro hoạt động; (3) Rủi ro pháp lý; (4) Rủi ro công nghệ; (5) Rủi ro tài chính; (6) Rủi ro gian lận. Trong đó:
Rủi ro chiến lược: là loại rủi ro đầu tiên đối với việc phát triển ngân hàng số. Điều này đến từ việc lựa chọn sai chiến lược, xây dựng các kế hoạch, biện pháp, sản phẩm triển khai không phù hợp với năng lực, xu hướng của thị trường, dẫn tới thiếu hiệu quả, gây tổn thất cho ngân hàng.
Rủi ro hoạt động (RRHĐ): RRHĐ luôn hiện hữu hầu như trong tất cả các giao dịch và hoạt động của NHTM. Theo Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng, “RRHĐ là rủi ro gây ra tổn thất do các nguyên nhân như con người, sự không đầy đủ hoặc vận hành không tốt các quy trình, hệ thống; các sự kiện khách quan bên ngoài. RRHĐ bao gồm cả rủi ro pháp lý nhưng loại trừ về rủi ro chiến lược và rủi ro uy tín. Đối với một ngân hàng số, rủi ro hoạt động có thể được kiểm soát tốt hơn bằng những quy trình quản lý chuẩn mực so với hoạt động ngân hàng thông thường và ít nhân sự tham gia vận hành. Tuy nhiên, nếu rủi ro xảy ra sẽ mang lại tổn thất nặng nề bởi nhiều trường hợp xuất phát từ lỗi cố ý sai phạm của người có thẩm quyền.
Rủi ro pháp lý: Ngân hàng hay dịch vụ số liên quan rất lớn đến các quy định về việc tuân thủ, các quy tắc như phòng chống rửa tiền, nhận biết khách hàng, bảo mật dữ liệu, tài khoản và giới hạn giao dịch… Do đây là những quy định chung, áp dụng cho ngành tài chính truyền thống nên một số dịch vụ đi trước có khả năng khó đáp ứng. Vấn đề nhận biết khách hàng KYC là một dẫn chứng. Yêu cầu hiện nay tại Việt Nam, khách hàng khi mở tài khoản tại tổ chức tài chính bắt buộc phải được xác minh thông tin khách hàng trực tiếp theo Luật Phòng, chống rửa tiền. Điều này là một vướng mắc đáng kể cho sự phát triển của dịch vụ ngân hàng số.
Rủi ro công nghệ: là rủi ro được đề cập nhiều khi áp dụng ngân hàng số do công nghệ càng hiện đại thì việc làm chủ của con người càng đặt ra những khó khăn, dẫn tới rủi ro và tổn thất. Giả sử với một tình huống dẫn tới gián đoạn công nghệ (lỗi, sự cố công nghệ hoặc tấn công mạng), không có khả năng tiến hành giao dịch thì cả khách hàng và ngân hàng đều có thể bị thiệt hại, dẫn tới những hệ lụy như mất niềm tin, tổn thất tài chính. Bất kỳ sự cố nào trong chuỗi hoạt động hay một lỗ hổng về công nghệ cũng dẫn tới cơ hội cho những kẻ lừa đảo lợi dụng để thực hiện các giao dịch trái phép, trộm cắp tiền.
Rủi ro tài chính: Cũng giống như ngân hàng truyền thống, một ngân hàng số vẫn gặp phải những rủi ro liên quan đến hoạt động ngân hàng dẫn tới thiệt hại về tài chính, mất vốn. Những rủi ro này có thể xuất phát từ rủi ro thanh khoản, thị trường, tín dụng…
Rủi ro gian lận: Gian lận là mối lo ngại rất lớn khi sử dụng ngân hàng kỹ thuật số do các rủi ro gian lận đến từ những nguyên nhân như mất an toàn bảo mật dẫn đến thông tin khách hàng và ngân hàng bị lộ, do khách hàng không có nhận thức và sử dụng dịch vụ đúng quy cách dẫn tới bị kẻ gian lợi dụng lừa đảo, chiếm đoạt tiền trên tài khoản, người dùng chưa có thói quen quan tâm đến an ninh của thiết bị, thường không thay đổi mật khẩu mặc định, không an toàn khi sử dụng công nghệ xác thực...
- Chi phí đầu tư lớn: Chi phí đầu tư cho việc kết hợp công nghệ mới với nền tảng hạ tầng thanh toán hiện có khá lớn, các NHTM phải thay đổi mô hình cung ứng dịch vụ thanh toán cho phù hợp với công nghệ mới. Nguồn vốn để đầu tư nghiên cứu và phát triển AI khá cao, vì vậy, việc nghiên cứu và ứng dụng AI mới chỉ được triển khai tại các ngân hàng/tổ chức tài chính lớn trên thế giới. Chi phí chuyển đổi ngân hàng lõi (Core Banking) hay chi phí đầu tư hệ thống công nghệ mới rất tốn kém, thời gian hoàn vốn lâu và rủi ro trong quá trình thực hiện. Trong khi đó, các ngân hàng cần nhiều thời gian để chuẩn hóa, số hóa nguồn nhân lực, xây dựng hệ sinh thái để chuyển đổi từ mô hình truyền thống sang mô hình số.
4. Một số đề xuất nhằm phát triển ngân hàng số trong thanh toán
Từ kinh nghiệm quốc tế, các NHTM Việt Nam có thể nhận thấy các cơ hội và thách thức để triển khai Ngân hàng số nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam và các hình thức thanh toán quốc tế mới. Để nâng cao hiệu quả triển khai Ngân hàng số tại Việt Nam nhằm thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, tác giả đề xuất những giải pháp trọng tâm sau:
- Đối với NHNN
Sớm hoàn thiện khung khổ pháp lý về: (i) Ngân hàng số; eKYC (có giới hạn); (ii) Hệ thống đại lý ủy thác của ngân hàng về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, dịch vụ ngân hàng số (nạp, rút tiền mặt từ Tài khoản số; phát triển người dùng. Hỗ trợ thực hiện dịch vụ ngân hàng số có thu phí...); (iii) Chính sách về an toàn, bảo mật thông tin trong giao dịch điện tử để bảo vệ lợi ích hợp pháp cho khách hàng; (iv) Quy trình nghiệp vụ giao dịch điện tử qua ngân hàng, giám sát hoạt động ngân hàng số và phòng chống rửa tiền.
Có chính sách hỗ trợ, đẩy mạnh truyền thông thúc đẩy dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của doanh nghiệp và người dân, phát triển thương mại điện tử và hệ sinh thái số hỗ trợ cho thanh toán điện tử, nghiên cứu và phát triển các nền tảng thanh toán điện tử không qua ngân hàng, dựa trên số điện thoại di động hay căn cước công dân.
Tổ chức các hội thảo, chuyên đề khoa học công nghệ ngân hàng để tư vấn, hỗ trợ ngân hàng đẩy nhanh quá trình chuyển đổi core banking, chuẩn hóa, số hóa, xây dựng ngân hàng số đáp ứng yêu cầu của cách mạng 4.0 của đất nước và hội nhập quốc tế.
- Đối với NHTM
Nghiên cứu và xây dựng lộ trình chuyển đổi ngân hàng số, phân bổ nguồn lực phù hợp cho đầu tư công nghệ mới
Các ngân hàng khi thực hiện chuyển đổi số cần phải xác định rõ mục tiêu, phương pháp chuyển đổi phù hợp với thực tiễn và cơ sở hạ tầng công nghệ, nhân sự, mạng lưới đã có. Đối với các ngân hàng Việt Nam, đề xuất lựa chọn mô hình chuyển đổi hỗn hợp: tận dụng cơ sở vật chất ngân hàng truyền thống, ứng dụng công nghệ và mạng lưới chi nhánh, giảm chi phí, nhân sự, đồng thời xây dựng bộ phận chuyển đổi gắn với trách nhiệm giải quyết nhu cầu khách hàng bằng các giải pháp số hóa. Các ngân hàng cần sắp xếp các hạng mục ưu tiên trong đầu tư để hoàn thiện công nghệ lõi theo thứ tự trước khi hoàn toàn tập trung phát triển sản phẩm và dịch vụ mới.
Hoàn thiện cơ sở dữ liệu tập trung, ứng dụng AI, phân tích dữ liệu lớn vào chấm điểm tín dụng và quản trị khách hàng CXM
Dữ liệu và tận dụng dữ liệu chính là điểm khác biệt cốt lõi, quyết định thành công của quá trình chuyển đổi số. Các NHTM Việt Nam cần đặc biệt coi trọng xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung của ngân hàng tạo điều kiện để các bộ phận nghiệp vụ truy cập, thu thập dữ liệu dễ dàng và đầy đủ hơn, phân quyền truy cập đối với những thông tin bảo mật. Các NHTM có thể xem xét thành lập Trung tâm khai thác và quản lý dữ liệu kinh doanh nhằm chuyên biệt hóa chức năng phân tích kho dữ liệu, quản lý các dự án về dữ liệu và phối hợp cung cấp thông tin nhanh cho Ban lãnh đạo ngân hàng, các bộ phận kinh doanh, nghiên cứu phát triển, công nghệ thông tin, quản trị rủi ro....
Phát triển ngân hàng số song song với xây dựng hệ sinh thái của ngân hàng
Đối với sản phẩm ngân hàng số cần gia tăng số điểm chấp nhận thanh toán, khắc phục các hạn chế về công nghệ đồng thời nâng cao giải pháp bảo mật, phòng ngừa gian lận để người dùng yên tâm sử dụng. Hệ sinh thái toàn diện kết nối giữa ngân hàng với các đối tác cần đáp ứng các yêu cầu về: Phương tiện thanh toán online, dịch vụ ngân hàng số, công cụ quản lý tài sản, tài chính tiêu dùng, bảo hiểm, chấm điểm tín dụng, tích lũy điểm thưởng dùng chung, hỗ trợ kinh doanh online... Qua đó, ngân hàng có thể thu thập và khai thác được cơ sở dữ liệu người dùng rất lớn phục vụ cho kinh doanh dịch vụ của ngân hàng như: cho vay tín chấp trên cơ sở dữ liệu khách hàng, chấm điểm tín dụng, tư vấn dịch vụ tài chính cho khách hàng một cách tự động và tối ưu.
Đẩy mạnh triển khai thanh toán xuyên biên giới qua các ứng dụng thanh toán, thẻ phi vật lý
Các NHTM Việt Nam cần tập trung phát triển kết nối với đối tác ngoại, đẩy mạnh hợp tác triển khai các hình thức thanh toán quốc tế qua ứng dụng trên điện thoại di động cho phép người dùng Việt Nam thanh toán bằng mã QRCode, NFC… tại các ĐCNTT nước ngoài và ngược lại. Về mô hình hợp tác, các NHTM Việt Nam có thể đàm phán với đối tác ngoại tỷ lệ phí thu được theo phần trăm tính trên tổng giá trị giao dịch của khách hàng được thực hiện đối soát hàng ngày giữa NHTM Việt Nam và ngân hàng của đối tác tại nước ngoài. Trong bối cảnh nhu cầu thanh toán xuyên biên giới có xu hướng ngày càng tăng, đây sẽ là một trong những sản phẩm dịch vụ đem lại nguồn thu phí lớn, giúp cải thiện biên lợi nhuận và củng cố kết quả kinh doanh cho các NHTM Việt Nam trong thời gian tới. Đồng thời với thỏa thuận hợp tác, các NHTM Việt Nam cũng sẽ tích lũy được kinh nghiệm cũng như học hỏi được công nghệ mới từ đối tác nước ngoài hỗ trợ cho quá trình chuyển đổi số tại tổ chức.
[1] Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam, hiện có khoảng 140 doanh nghiệp online thành viên. Theo thỏa thuận, Amazon sẽ giúp các doanh nghiệp thuộc VECOM bán sản phẩm của mình thông qua nền tảng của Amazon.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Business Times (2019), Cashless payments between Singapore, Taiwan possible with Liquid Group, E.SUN tie-up, https://www.businesstimes.com.sg/garage/cashless-payments-between-singapore-taiwan-possible-with-liquid-group-esun-tie-up, truy cập ngày 23/12/2019.
KPMG (2018), Cross-border interbank payments and settlements, https://www.mas.gov.sg/-/media/MAS/ProjectUbin/Cross-Border-Interbank-Payments-and-Settlements.pdf, truy cập ngày 23/12/2019.
Ledger Insights (2019), Cambodian central bank exploring blockchain for cross border payments, https://www.ledgerinsights.com/cambodian-central-bank-blockchain-cross-border-payments/, truy cập ngày 23/12/2019.
NHNN (2019), Số hóa ngân hàng thiết lập mô hình kinh doanh mới, https://sbv.gov.vn/webcenter/portal/m/menu/trangchu/ttsk/ttsk_chitiet?leftWidth=0%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=SBV400883&rightWidth=0%25¢erWidth=100%25&_afrLoop=31943417122783095#%40%3F_afrLoop%3D31943417122783095%26centerWidth%3D100%2525%26dDocName%3DSBV400883%26leftWidth%3D0%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Dm0x6ud9zn_9, truy cập ngày 24/12/2019.
NHNN (2019), Thanh toán không dùng tiền mặt xu thế tất yếu, https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/m/menu/trangchu/ddnhnn/nctd/nctd_chitiet;jsessionid=mSVtpDPphPytQRfLx5FvR6xFgrGGYk1PhsMx5nVpvpvmFfyy8vWh!1673491547!393139805?centerWidth=100%25&dDocName=SBV403090&leftWidth=0%25&rightWidth=0%25&showFooter=false&showHeader=false&_adf.ctrlstate=r23oovn5_9&_afrLoop=31880234413926577#%40%3F_afrLoop%3D31880234413926577%26centerWidth%3D100%2525%26dDocName%3DSBV403090%26leftWidth%3D0%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D12kalb5tds_4, truy cập ngày 24/12/2019.
Orakwue, E., (2017), Innovation, Big Data & Technology in Financial Services, Available at SSRN: https://ssrn.com/abstract=2939426.
South China Morning Post (2019), Alipay launches international e-wallet, giving foreigners access to mobile payment platform in first for China, https://www.scmp.com/business/article/3036366/alipay-launches-international-e-wallet-giving-foreigners-access-electronic, truy cập ngày 24/12/2019.
The MasterCard Foundation and IFC, Digital financial service and risk, Available at https://www.ifc.org/wps/wcm/connect/06c7896a-47e1-40af-8213-af7f2672e68b/Digital+Financial+Services+and+Risk+Management+Handbook.pdf?MOD=AJPERES (P.95-108).
TS. Phạm Bích Liên
ThS. Nguyễn Ngọc Duẩn,
ThS. Tô Thị Diệu Loan
Theo TCNH số 4/2020