Việt Nam nỗ lực hiện thực hóa khát vọng hùng cường
03/02/2022 06:28 2.330 lượt xem



Khát vọng hùng cường theo tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng

 
Điểm nổi bật về đường lối phát triển kinh tế nêu trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (Đại hội XIII) là sự củng cố, làm sâu sắc và nâng cao toàn diện hơn nhận thức về mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, với những đặc trưng mang tính thời đại và cả những nét đặc thù quan trọng, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; đồng thời, tái khẳng định mục tiêu cao nhất của công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vì một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, phát triển đất nước bền vững và đáp ứng ngày càng tốt hơn khát vọng hạnh phúc cho người dân. Đại hội XIII cũng xác định rõ yêu cầu trong định hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế giai đoạn 5 năm 2021 - 2025 là: Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao; tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh; phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh; thực hiện tốt hơn phát triển bền vững kinh tế biển; xây dựng chiến lược, hoàn thiện thể chế phát triển đô thị và kinh tế đô thị; tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế…
 
Đặc biệt, Đại hội XIII lần đầu tiên xác định những mục tiêu có tính dài hạn, với 3 mốc về thời gian, yêu cầu, cấp độ cụ thể theo cách tiếp cận mới cả về trình độ phát triển, trình độ công nghiệp và thu nhập bình quân đầu người, phù hợp với cách tiếp cận của thế giới, đó là: Việt Nam phải là nước đang phát triển, có nền công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp (đến năm 2025); chuyển thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao (năm 2030); trở thành nước phát triển, thu nhập cao (năm 2045).
 
Thực tế ghi nhận và đòi hỏi, cần khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để xây dựng thành công mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của Cách mạng Việt Nam, là cơ chế bảo đảm gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, phát huy dân chủ, sáng tạo và bảo vệ quyền con người, quyền công dân và người dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới; bảo đảm Việt Nam giữ vững được ổn định chính trị và kinh tế vĩ mô, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh kinh tế; củng cố đồng thuận và đoàn kết xã hội; không ngừng cải thiện các quan hệ và vị thế quốc tế; tạo dựng được lòng tin và hình thành nên các cơ chế hợp tác có hiệu quả trong việc thúc đẩy quan hệ, ngăn ngừa, đẩy lùi các nguy cơ, kiểm soát các bất đồng và giải quyết các vấn đề nảy sinh; nhất là các vấn đề có thể tác động nghiêm trọng tới an ninh và phát triển của đất nước ta; xây dựng và phát triển đất nước nhanh hơn, bền vững hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và toàn diện hơn.
 
Nỗ lực hiện thực hóa khát vọng
 
Đến cuối năm 2021, Việt Nam có 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện; có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước (so với 11 nước trong năm 1954) và quan hệ kinh tế với 160 nước và 70 vùng lãnh thổ; tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó có 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) (15 hiệp định đã ký kết, có hiệu lực và 02 hiệp định đang đàm phán). Đó là những cánh cửa lớn và đa chiều để Việt Nam định hướng hoàn thiện khung khổ thể chế phát triển kinh tế thị trường và tự tin hội nhập toàn cầu ngày càng sâu, rộng, đầy đủ và hiệu quả hơn, cũng như tạo xung lực đưa Việt Nam trở thành một nền kinh tế có độ mở cao, tới 200% GDP và cải thiện cán cân thương mại hàng hóa chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu 6 năm liên tục từ năm 2016 đến nay (dù vẫn nhập siêu dịch vụ).
 
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt tới 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm trước và tăng hơn 7 lần so với năm 2006 - năm Việt Nam được kết nạp làm thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Việt Nam hiện có 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến chiếm tới 85,2% kim ngạch xuất khẩu năm 2020 và lọt vào Top 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới năm 2021. 

Ðại hội XIII lần đầu tiên xác định những mục tiêu có tính dài hạn: Việt Nam phải là nước đang phát triển, có nền công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp (đến năm 2025); chuyển thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao (năm 2030); trở thành nước phát triển, thu nhập cao (năm 2045).
 
Khát vọng hùng cường và việc tuân thủ các cam kết hội nhập cũng giúp Việt Nam cải thiện nhiều chỉ số xếp hạng quốc tế quan trọng khác. Theo đánh giá và xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam đã cải thiện, từ thứ hạng 68/121 vào năm 2007 lên thứ 77/140 năm 2018 và tăng tiếp lên thứ 67/141 nền kinh tế vào năm 2019. Cũng trong năm 2019, trước khi dịch Covid-19 bùng phát trên thế giới, Việt Nam được coi là quốc gia có nền kinh tế ổn định và tăng trưởng nhanh Top đầu khu vực và thế giới; là năm thứ 2 liên tiếp cả nước đạt toàn bộ 12 chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu, trong đó có 5 chỉ tiêu vượt kế hoạch và được IMF đánh giá nằm trong số 20 nền kinh tế có đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu năm 2019. Đồng thời, Việt Nam cũng lọt vào Top 10/163 nước đáng sống nhất thế giới theo Báo cáo Toàn cầu HSBC's Expat 2019 do Ngân hàng HSBC công bố; đứng thứ 83/128 nước trong Xếp hạng năm 2019 về các nước an toàn nhất và xếp thứ 128/192 nước giàu nhất thế giới do Tạp chí Global Finance công bố; xếp hạng 94/156 nước trong bảng Xếp hạng “Quốc gia Hạnh phúc” năm 2019 theo World Happiness Report, được Mạng lưới các giải pháp phát triển bền vững của Liên hợp quốc (United Nations Sustainable Development Solutions Network) công bố vào ngày 20/3/2019. Việt Nam xếp thứ 84/161 nước trong Xếp hạng bảo vệ nhà đầu tư (Best Countries for Business) của Forbes năm 2019 với 15 chỉ số như sáng tạo, thuế, công nghệ, tham nhũng, hạ tầng, rủi ro chính trị, nhân lực, bảo vệ nhà đầu tư; Việt Nam xếp 39/80 nước trong xếp hạng các nước “tốt nhất thế giới” theo đánh giá của trang U.S. News & World Report …
 
Việt Nam đã được 90 nước công nhận kinh tế thị trường và đạt được những thành tựu nổi bật về tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua và có nhiều khả năng tiếp tục giữ đà tăng trưởng cao trong tương lai trung hạn nhờ khung đầu tư tổng thể đã được hiện đại hóa, chi phí đăng ký kinh doanh đã được cắt giảm và tạo điều kiện cho đầu tư nước ngoài, cũng như hoạt động khởi sự kinh doanh (theo công bố xếp hạng các nền kinh tế tốt nhất để đầu tư của Tạp chí U.S. News & World Report, Việt Nam xếp thứ 8 trong Top 20 nền kinh tế tốt nhất để đầu tư năm 2019, tăng từ vị trí 23 của năm 2018). 
 
Sự xuất hiện của dịch bệnh Covid-19 đã phần nào làm chậm lại đà tăng tốc trên hành trình hiện thực hóa khát vọng hùng cường của Việt Nam trong hai năm qua, song cũng là dịp tôi luyện và khẳng định bản lĩnh, trí tuệ Việt Nam. 
 
Theo Tổng cục Thống kê, tăng trưởng GDP năm 2021 ước chỉ đạt 2,58%, khiến hai năm liên tiếp Việt Nam không đạt mục tiêu kế hoạch đề ra. Cộng đồng doanh nghiệp bị tổn thất nặng nề, suy giảm cả về lượng và hiệu quả hoạt động... Năm 2021, lần đầu tiên trong lịch sử hàng chục năm qua, có sự suy giảm so với năm trước cả về số lượng doanh nghiệp đăng ký mới.
 
Tuy vậy, theo IMF, năm 2020, quy mô GDP Việt Nam đứng thứ 44 trên thế giới, đứng thứ tư châu Á và bình quân GDP/đầu người đứng thứ 6 khu vực Đông Nam Á. Đồng thời, Việt Nam là thương hiệu quốc gia tăng giá trị nhanh nhất thế giới trong năm 2020, khi tăng tới 29% so với năm trước, lên 319 tỷ USD; từ vị trí 42 lên 33 trong danh sách 100 thương hiệu quốc gia của Brand Finance (hãng định giá thương hiệu và tư vấn chiến lược độc lập hàng đầu của Anh).
 
Tỷ lệ nghèo tiếp cận đa chiều ước khoảng 4,4%, giảm 0,4 điểm phần trăm so với năm 2020. Số xã đạt chuẩn nông thôn mới ước tính đến hết tháng 12/2021 đạt 68% (tăng 5,6% so với năm 2020).
 
Về tổng thể, năm 2021, các điều kiện nền tảng vẫn vững mạnh; lượng dự trữ ngoại hối tăng cao; tiền tệ ổn định, lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát... Đặc biệt, năm 2021, Việt Nam là quốc gia duy nhất trên thế giới được cả ba tổ chức xếp hạng tín nhiệm gồm Moody’s, Standard & Poor’s và Fitch đồng loạt nâng cấp độ triển vọng từ “Ổn định” lên “Tích cực” kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát.  
 
Hơn nữa, năm 2021, Việt Nam tiếp tục được World Travel Awards (Giải thưởng du lịch thế giới) vinh danh là Điểm đến hàng đầu châu Á, giống như năm 2018 và năm 2019; đồng thời, được vinh danh là Điểm đến du lịch bền vững hàng đầu châu Á; Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) được vinh danh là Điểm tham quan hàng đầu châu Á; thành phố Hội An (Quảng Nam) là Điểm đến đô thị văn hóa hàng đầu châu Á và Vườn Quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình) được vinh danh Công viên quốc gia hàng đầu châu Á.
 
Theo bảng xếp hạng về Chỉ số tự do kinh tế năm 2021 (Index of Economic Freedom 2021) mới công bố của Heritage Foundation (một tổ chức nghiên cứu và giáo dục, chuyên thúc đẩy tự do kinh doanh được thành lập năm 1973 tại Mỹ), với điểm tổng thể của Việt Nam là 61,7 điểm (cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới). Việt Nam là nền kinh tế tự do đứng thứ 17/40 quốc gia ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và đứng thứ 90/184 nền kinh tế trên thế giới trong bảng xếp hạng điểm số tự do kinh tế của Heritage Foundation. Đây cũng là năm đầu tiên kinh tế Việt Nam bước vào nhóm các nền kinh tế có “tự do trung bình” (Moderately Free), tăng 15 bậc so với năm trước, từ nhóm được xem là hầu như không tự do kinh tế. 
 
Còn theo Báo cáo chỉ số quyền lực mềm toàn cầu (Brand Finance Global Soft Power Index Report) năm 2021, được Brand Finance - công ty tư vấn chiến lược và định giá thương hiệu độc lập hàng đầu thế giới, có trụ sở tại London (Anh) công bố tại “Hội nghị thượng đỉnh 2021 về quyền lực mềm toàn cầu” ngày 25/02/2021, Việt Nam là quốc gia duy nhất trong khối ASEAN được nâng hạng trong bảng xếp hạng quyền lực mềm toàn cầu, tăng 2,5 điểm, xếp thứ 47/105 quốc gia được xếp hạng. 
 
Bên cạnh các chỉ số về kinh tế, theo khảo sát và đánh giá của Liên hợp quốc, chỉ số phát triển bền vững (SDG) của Việt Nam đã liên tục gia tăng từ vị trí 88 vào năm 2016 lên 57 vào năm 2018 và 49 vào năm 2020. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020, với mức giảm trung bình là trên 1,4% mỗi năm.   
 
Việt Nam đã đạt được sự tiến bộ trong xếp hạng của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) - cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc. Năm 2021, Việt Nam được WIPO xếp thứ 44, nằm trong khoảng tin cậy (từ khoảng 42 đến 47) của thứ hạng này.
 
Những kết quả trên đây không chỉ là sự kế thừa và phát huy nền tảng vốn có từ lịch sử dân tộc hào hùng, nền văn hiến, chính sách đối ngoại hòa bình… mà còn là sự phát triển, tận dụng cả những vị thế mới, lợi thế mới trong nền kinh tế hiện đại và không ngừng phát triển; khẳng định sự nhất quán và thống nhất cao trong nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, toàn thể người dân và cộng đồng doanh nghiệp về khát vọng hùng cường, tạo động lực và là động năng mạnh mẽ để giúp Việt Nam phát triển kinh tế - xã hội, mang lại cho người dân cuộc sống tốt đẹp hơn, ngày càng trở thành một quốc gia cạnh tranh và hiện đại hơn.
 
Một mùa xuân mới đang về! Trên hành trình thực hiện khát vọng hùng cường trong thời gian tới cũng đòi hỏi những nỗ lực mới của Việt Nam về đổi mới tư duy, vượt qua chính mình và đáp ứng đầy đủ hơn các chuẩn mực kinh tế thị trường, các cam kết và thông lệ quốc tế; không ngừng hoàn thiện thể chế phát triển, nhận diện và giải quyết hiệu quả hơn các khó khăn, thách thức đến từ sự thay đổi mạnh mẽ về tất cả các lĩnh vực đời sống trong nước và thế giới; nắm bắt cơ hội trong tương lai và quản lý rủi ro, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh kinh tế, cả vĩ mô và vi mô; tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị và cung ứng quốc tế; hướng tới phát triển kinh tế bền vững, nâng cao đời sống người dân, vươn mình hội nhập, sánh vai với các nước và đóng góp vào sự thịnh vượng chung của khu vực và thế giới…■

TS. Nguyn Minh Phong (Hà Ni)

 
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương thực hiện toàn diện, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra
Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương thực hiện toàn diện, hiệu quả các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra
15/11/2024 10:50 57 lượt xem
Ngày 12/11/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 218/NQ-CP về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 năm 2024. Trong đó, Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương thực hiện toàn diện, hiệu quả hơn nữa các Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội, kiên trì các mục tiêu đề ra, phấn đấu tăng trưởng GDP quý IV đạt khoảng 7,4 - 7,6%, cả năm đạt trên 7% và hoàn thành toàn bộ 15 chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội của năm 2024.
Hội thi “Ngân hàng xanh cho cuộc sống xanh” thành công tốt đẹp
Hội thi “Ngân hàng xanh cho cuộc sống xanh” thành công tốt đẹp
14/11/2024 22:48 124 lượt xem
Ngày 14/11/2024, tại Cung Văn hóa Hữu nghị Việt Xô, Thành phố Hà Nội đã diễn ra Vòng 3 và Lễ Bế mạc của Hội thi “Ngân hàng xanh cho cuộc sống xanh”.
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Tiểu ban Kinh tế - Xã hội Đại hội XIV của Đảng
Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Tiểu ban Kinh tế - Xã hội Đại hội XIV của Đảng
14/11/2024 09:00 98 lượt xem
Ngày 13/11/2024, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã chủ trì làm việc với Tiểu ban Kinh tế - Xã hội Đại hội XIV của Đảng.
Hội thi “Ngân hàng xanh cho cuộc sống xanh” lan tỏa thông điệp về phát triển bền vững
Hội thi “Ngân hàng xanh cho cuộc sống xanh” lan tỏa thông điệp về phát triển bền vững
14/11/2024 08:00 161 lượt xem
Ngày 13/11/2024, tại Cung Văn hóa hữu nghị Việt Xô, Hà Nội đã diễn ra Lễ khai mạc và Vòng thi 1, Vòng thi 2 của Hội thi “Ngân hàng xanh cho cuộc sống xanh”. Hội thi nhằm chào mừng kỷ niệm 95 năm thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929 - 28/7/2024), hướng tới Đại hội Đảng bộ các cấp, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và các ngày lễ lớn trong năm 2025.
CIC tổ chức Chương trình tọa đàm “Phép lịch sự xã giao trong giao tiếp”
CIC tổ chức Chương trình tọa đàm “Phép lịch sự xã giao trong giao tiếp”
14/11/2024 07:30 128 lượt xem
Thực hiện kế hoạch công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ năm 2024, ngày 12/11/2024, Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) đã phối hợp với Ban Nữ công CIC tổ chức thành công Chương trình tọa đàm “Phép lịch sự xã giao trong giao tiếp”.
Quốc hội thông qua Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2025
Quốc hội thông qua Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2025
13/11/2024 14:17 119 lượt xem
Với 428/430 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, sáng 13/11/2024, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2025 (trong đó, có một số nội dung về điều chỉnh, bổ sung dự toán ngân sách nhà nước).
Chính phủ trình chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam
Chính phủ trình chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam
13/11/2024 14:15 112 lượt xem
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ tám, sáng 13/11/2024, Quốc hội đã nghe Báo cáo về chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.
Ban hành các quyết định về lãi suất tiền gửi
Ban hành các quyết định về lãi suất tiền gửi
13/11/2024 11:23 187 lượt xem
Nhằm đảm bảo tính thống nhất về căn cứ pháp lý với các Thông tư quy định về lãi suất tiền gửi, ngày 01/11/2024, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành các Quyết định 2410/QĐ-NHNN và 2411/QĐ-NHNN quy định về lãi suất tiền gửi trong đó chỉnh sửa căn cứ pháp lý ban hành và không thay đổi các mức lãi suất tiền gửi.
Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Ngân hàng Nhà nước
Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Ngân hàng Nhà nước
13/11/2024 10:00 132 lượt xem
Ngày 12/11/2024 tại Hà Nội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) và Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) phối hợp tổ chức Hội thảo tập huấn về "Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Ngân hàng Nhà nước".
Giá vàngXem chi tiết

Giá vàng - Xem theo ngày

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

80,000

83,500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

80,000

83,500

Vàng SJC 5c

80,000

83,520

Vàng nhẫn 9999

79,000

81,700

Vàng nữ trang 9999

78,900

81,300


Ngoại tệXem chi tiết
Tỷ giá - Xem theo ngày 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,150 25,502 26,254 27,694 31,503 32,842 158.30 167.51
BIDV 25,180 25,502 26,446 27,618 31,878 32,782 160.12 167.1
VietinBank 25,177 25,502 26,467 27,667 31,923 32,933 159.81 167.56
Agribank 25,170 25,502 26,372 27,579 31,679 32,771 159.87 167.45
Eximbank 25,140 25,502 26,466 27,374 31,780 32,829 160.99 166.54
ACB 25,130 25,500 26,462 27,371 31,880 32,843 160.29 166.63
Sacombank 25,170 25,500 26,439 27,412 31,777 32,929 160.55 167.56
Techcombank 25,165 25,502 26,271 27,622 31,495 32,827 156.9 169.34
LPBank 25,145 25,502 26,785 27,619 32,145 32,660 161.65 168.73
DongA Bank 25,200 25,500 26,490 27,320 31,840 32,780 159.00 166.20
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,50
2,70
3,50
3,70
4,40
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,80
2,90
3,20
4,20
4,30
4,90
5,00
Techcombank
0,05
-
-
-
3,10
3,10
3,30
4,40
4,40
4,80
4,80
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,20
4,20
4,20
5,30
5,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,90
3,90
4,10
5,55
5,70
5,80
6,10
Agribank
0,20
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
Eximbank
0,10
0,50
0,50
0,50
3,10
3,30
3,40
4,70
4,30
5,00
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?