Thanh toán điện tử tại Việt Nam những năm gần đây phát triển mạnh mẽ với sự nở rộ các ví điện tử, đưa lại nhiều tiện ích cho người dùng.
Thanh toán điện tử tại Việt Nam những năm gần đây phát triển mạnh mẽ với sự nở rộ các ví điện tử, đưa lại nhiều tiện ích cho người dùng. Hiện nay, khi việc triển khai dịch vụ Mobile Money (tiền di động) gần kề thì các nhà cung ứng ví điện tử lại có những lo ngại về khả năng mở rộng thị phần. Tuy nhiên, theo các chuyên gia nhận định, mỗi loại hình có một thế mạnh riêng, cạnh tranh sẽ là cơ hội cho cả hai và đích đến là phục vụ tốt hơn nhu cầu thanh toán đa dạng của người dùng.
Ví điện tử ngày càng được ưa chuộng
Mới đây, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có Văn bản số 37/GP-NHNN về việc cấp Giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán cho Công ty Cổ phần Thanh toán G (GPAY).
Theo giấy phép này, các dịch vụ trung gian thanh toán mà GPAY được cấp phép là: Dịch vụ Cổng thanh toán điện tử; dịch vụ Hỗ trợ thu hộ, chi hộ và dịch vụ ví điện tử. Công ty Cổ phần Thanh toán G (GPAY) là một đơn vị thành viên trực thuộc Tập đoàn G-Group. Được thành lập vào tháng 6 năm 2018, khởi điểm của GPAY là ứng dụng hỗ trợ kết nối dịch vụ chuyển tiền 24/7. Đây là nền tảng để người dùng có thể cung cấp dịch vụ như các ATM di động. Tổng giá trị giao dịch của GPAY rơi vào khoảng 50 triệu USD trong năm 2019. GPAY đặt mục tiêu mở rộng mạng lưới tới 63 tỉnh thành phố của Việt Nam và cung cấp toàn diện các dịch vụ thanh toán và tài chính bao gồm cổng thanh toán; ví điện tử; thu hộ, chi hộ và đầu tư số... cho hơn 5 triệu người dùng vào năm 2023.
Mobile Money dự kiến được cấp phép thử nghiệm năm 2020
Trước đó, Công ty Cổ phần VINID PAY (trực thuộc Tập đoàn Vingroup) cũng đã được cấp phép dịch vụ trung gian thanh toán dưới hình thức dịch vụ ví điện tử.
Đến nay, đã có 33 tổ chức tại Việt Nam không phải là ngân hàng đã được NHNN cấp phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.
Riêng ở TP.HCM và Hà Nội, nghiên cứu gần đây của Cimigo cho thấy, Momo, Moca và ZaloPay là 3 ví được sử dụng phổ biến nhất, chiếm đến 90% thị phần người dùng ví điện tử. Trong khảo sát của Cimigo, người dùng Moca hiện có tần suất sử dụng ví thường xuyên nhất. Trung bình mỗi ngày, người dùng Moca thực hiện 2,2 giao dịch, cao hơn người dùng Momo với 2,0 giao dịch và người dùng ZaloPay với 1,6 giao dịch.
Cùng với đó, nghiên cứu cũng chỉ ra Moca hiện đang là ví điện tử dẫn đầu về mức độ gắn bó với ví, với 95% khách hàng sử dụng Moca nói rằng họ vẫn tiếp tục sử dụng ví này cho dù không có khuyến mãi. Tỷ lệ này của Momo là 89% và ZaloPay là 84%.
Một ví dụ điển hình khác cho sự phát triển mạnh mẽ và ấn tượng về thị phần của ví điện tử được nhắc đến là ứng dụng Momo. Mới đầu năm 2019, Momo công bố đã tiếp cận được 10 triệu người dùng với khối lượng giao dịch tăng gấp 3 lần năm 2017. Thậm chí, sự sôi động và hấp dẫn của ví điện tử đã thu hút các ngân hàng cũng như các công ty, tập đoàn công nghệ lớn từng bước thâm nhập vào thị trường mới nổi này. Chẳng hạn, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bưu điện Liên Việt có sản phẩm Ví Việt, hay Bank Plus ra đời là sự kết nối giữa Viettel và MBBank, VPBank với Timo và Maritime Bank với MEED, Sacombank cũng đã cho ra mắt ví Sacombank Pay... Ngoài ra còn có những công ty, tập đoàn công nghệ lớn như WePay (của VC Corp), ViettelPay của Viettel... Không những thế, một số doanh nghiệp nước ngoài cũng chọn cách bắt tay với các doanh nghiệp nội trong cuộc đua giành thị phần ví điện tử, phải kể đến Quỹ Đầu tư Standard Chartered Private Equity và Ngân hàng đầu tư toàn cầu Goldman Sachs đã hợp tác với Công ty cổ phần M-Service bỏ vốn vào Momo. VNPT Epay có 65% vốn sở hữu thuộc Quỹ Đầu tư của Hàn Quốc, 90% vốn của Công ty cổ phần OnePay thuộc về Tập đoàn TrueMoney đến từ Thái Lan...
Sở dĩ, ví điện tử có nhiều cơ hội để phát triển tại Việt Nam, là bởi những tiện ích, sử dụng nhanh chóng, an toàn của loại hình thanh toán này. Một là: Ví điện tử tạo nên sức hút hiện nay là miễn phí tất cả các giao dịch thanh toán, chuyển khoản và tích điểm cho người tiêu dùng thường xuyên thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM). Hai là: Khi mua sắm trên các trang thương mại điện tử, người dùng ví điện tử có thể bảo mật các thông tin về thẻ cũng như tài khoản ngân hàng mà không cần phải cung cấp cho các website thông qua ví điện tử, giúp hạn chế được rò rỉ thông tin.
Các khảo sát gần đây cho thấy, Việt Nam là mảnh đất màu mỡ cho các ví điện tử phát triển. Theo khảo sát tiêu dùng toàn cầu năm 2019 của PwC (1 trong 4 công ty kiểm toán, tài chính ngân hàng hàng đầu thế giới) đối với 27 nước/vùng lãnh thổ, cho thấy, dự kiến Việt Nam sẽ là thị trưởng tăng trưởng nhanh nhất về thanh toán di động. Tỷ lệ thanh toán bằng di động ở Việt Nam đã tăng từ 37% năm 2018 lên mức 61% năm 2019, là mức tăng cao nhất trong số 6 quốc gia Đông Nam Á tham gia khảo sát.
Từ đó có thể thấy, Việt Nam là một trong những thị trường ứng dụng thanh toán di động tiềm năng, phát triển nhanh nhất khu vực và có sức tác động mạnh mẽ, thúc đẩy sự tăng trưởng của các hình thức thanh toán điện tử nói chung và ví điện tử nói riêng. Bên cạnh đó, phải kể đến những điều kiện khác như: Chính phủ khuyến khích phát triển TTKDTM; các doanh nghiệp ưu tiên sử dụng công nghệ thanh toán hiện đại; các loại hình thương mại điện tử, kinh doanh, hoạt động tiêu dùng, thương mại, mua sắm, dịch vụ, du lịch trong nước phát triển mạnh mẽ.
Chính sách quản lý ví điện tử ngày càng được hoàn thiện
Liên quan đến chính sách quản lý hoạt động và sử dụng ví điện tử, cuối năm 2019, NHNN đã ban hành tại Thông tư 23/2019/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán, trong đó có quy định: Việc nạp tiền vào ví phải qua tài khoản thanh toán, thẻ ghi nợ của khách hàng hoặc nhận tiền từ ví khác do cùng tổ chức cung ứng.
Về tổng hạn mức giao dịch của một ví điện tử cá nhân, bao gồm cả thanh toán và chuyển cho ví khác, không quá 100 triệu đồng trong một tháng. Cụ thể, tại điểm c, khoản 6, Điều 9 của Thông tư 23 quy định: Tổng hạn mức giao dịch qua các ví điện tử cá nhân của 01 khách hàng tại 01 tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử (bao gồm giao dịch thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ hợp pháp và giao dịch chuyển tiền từ ví điện tử này cho ví điện tử khác do cùng tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử mở) tối đa là 100 triệu đồng trong một tháng.
So với dự thảo trước đây, quy định chính thức đã bỏ hạn mức 20 triệu đồng mỗi ngày. Quy định này được đưa ra nhằm quản lý tốt hơn hoạt động ví điện tử, tránh việc khách hàng đăng ký mở ví điện tử tràn lan, không thực chất, phù hợp với thực trạng phát triển thị trường ví điện tử tại Việt Nam.
Hơn nữa, bản chất dịch vụ trung gian thanh toán là trung gian kết nối, truyền dẫn và xử lý dữ liệu điện tử các giao dịch thanh toán giữa tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và người sử dụng dịch vụ thanh toán. Do đó, các dịch vụ trung gian thanh toán (bao gồm dịch vụ ví điện tử) phải được cung ứng cho đối tượng khách hàng là người đã có tài khoản tại ngân hàng. Dịch vụ ví điện tử cần đảm bảo tính định danh và phải được liên kết với tài khoản thanh toán của khách hàng tại ngân hàng. Với vai trò cung ứng ví điện tử, tổ chức trung gian thanh toán cũng phải đảm bảo có đủ dữ liệu khách hàng của mình để phục vụ yêu cầu tra soát, khiếu nại của khách hàng, cũng như phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, điều tra của cơ quan chức năng khi có yêu cầu (tổ chức trung gian thanh toán không thể không nắm được thông tin về khách hàng của mình).
Theo thống kê của NHNN, trong Quý I/2019, tại Việt Nam, số lượng giao dịch bình quân của 01 ví điện tử là khoảng 2,54 giao dịch/tháng, giá trị giao dịch bình quân của 01 Ví điện tử là khoảng hơn 966.000 VND/tháng.
Trên thế giới, kinh nghiệm của một số nước về quản lý tiền điện tử (Ví điện tử), các Ngân hàng Trung ương đều có quy định về hạn mức sử dụng Ví điện tử ở mức tương đối thấp để giảm thiểu các rủi ro, như: Tại Philippin, phương tiện tiền điện tử được phát hành sẽ có tổng số tiền nạp hàng tháng không được vượt quá 100.000 Peso (khoảng 44 triệu đồng), trừ trường hợp khác được NHTW chấp nhận; hoặc tại Trung Quốc, tài khoản ví điện tử cấp độ 3 (việc xác thực khách hàng được thực hiện thông qua gặp mặt trực tiếp hoặc định danh không gặp mặt trực tiếp thông qua xác thực chéo với ít nhất 05 kênh định danh hợp lệ), khách hàng được sử dụng ví điện tử để thanh toán tiêu dùng, chuyển tiền và đầu tư vào các tài sản, sản phẩm tài chính với hạn mức lũy kế cả năm không quá 200.000 nhân dân tệ/năm (khoảng 680 triệu đồng/năm).
Thông tư mới cũng bỏ hạn mức giao dịch với ví điện tử dành cho tổ chức, trước đó hạn mức trong dự thảo tối đa không quá 100 triệu mỗi ngày và 500 triệu đồng mỗi tháng. Sở dĩ có sự lược bỏ quy định về hạn mức ví điện tử của tổ chức do khách hàng tổ chức có mức xác thực cao hơn khách hàng cá nhân, ví điện tử của tổ chức thường được sử dụng với nhiều mục đích đa dạng như chi trả lương cho cán bộ của công ty, quản lý các khoản thu, chi nội bộ.
Cũng theo Thông tư 23, các hành vi nghiêm cấm gồm: Việc sử dụng ví điện tử để thực hiện các giao dịch cho các mục đích rửa tiền, tài trợ khủng bố, lừa đảo, gian lận và các hành vi vi phạm pháp luật khác; nghiêm cấm việc thuê, cho thuê, mượn, cho mượn ví điện tử hoặc mua, bán thông tin ví điện tử; Tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử không được phép cấp tín dụng cho khách hàng sử dụng ví điện tử, trả lãi trên số dư ví điện tử hoặc bất kỳ hành động nào có thể làm tăng giá trị tiền tệ trên ví điện tử so với giá trị tiền khách hàng nạp vào ví điện tử.
Theo quy định, khách hàng được sử dụng ví điện tử để: Thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ hợp pháp; Chuyển tiền cho ví điện tử khác do cùng tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử mở; Rút tiền ra khỏi ví điện tử về tài khoản thanh toán hoặc thẻ ghi nợ của khách hàng (chủ ví điện tử) tại ngân hàng.
Gần đây đã có những phân tích về khả năng dẫn đến cạnh tranh không bình đẳng giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán ví điện tử và các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Mobile Money (tiền di động). Thực tế, một số tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử đã bày tỏ sự lo ngại về việc mở rộng thị phần và phát triển khách hàng của ví điện tử nếu Mobile Money được triển khai trong tương lai không xa.
Cạnh tranh sẽ là cơ hội cho hai bên
Dự thảo Nghị định thay thế Nghị đinh 101/2012/NĐ-CP quy định về TTKDTM có đưa ra khái niệm: “Tiền di động là tiền điện tử do tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán kinh doanh dịch vụ viễn thông phát hành và định danh khách hàng thông qua cơ sở dữ liệu thuê bao di động”. Khái niệm này có sự tương đồng với khái niệm về tiền di động của Công ty Tài chính Quốc tế (IFC). Theo IFC, Mobile-Money về bản chất là hình thức tiền điện tử (e-money), trong đó các giao dịch thanh toán và tài chính được thực hiện trên điện thoại di động, có thể trực tiếp hoặc không trực tiếp gắn kết với tài khoản ngân hàng. Nói cách khác, Mobile Money là kết hợp của tiền điện tử (như thẻ trả trước, ví điện tử) và sử dụng nền tảng kỹ thuật di động để thực hiện các giao dịch tài chính, sử dụng cơ sở dữ liệu thuê bao di động để định danh khách hàng.
Về những lợi ích khi triển khai Mobile Money, có thể thấy, dịch vụ này sẽ tận dụng hạ tầng viễn thông, do đó, giúp giảm các chi phí xã hội để phát triển, mở rộng các dịch vụ thanh toán. Bên cạnh đó, thị trường sẽ có thêm các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán, góp phần thúc đẩy hoạt động TTKDTM, tăng cường việc tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính. Qua đó góp phần thay đổi dần thói quen thanh toán bằng tiền mặt của người dân vẫn còn khá phổ biến hiện nay. Hơn nữa, Mobile Money góp phần cung ứng cho nhóm khách hàng không có tài khoản ngân hàng kênh giao dịch nhanh chóng và thuận tiện. Khách hàng có thể sử dụng dịch vụ 24/7, thanh toán mọi lúc, mọi nơi. Qua đó góp phần phổ cập tài chính, thúc đẩy tài chính toàn diện.
Mặc dù Mobile Money có những lợi thế nhất định, nhưng với bề dày về kinh nghiệm và được đông đảo khách hàng đón nhận nhờ nhiều tiện ích, các ví điện tử, trung gian thanh toán cũng có những lợi thế nhất định khi đã phát triển trước.
Việc chấp thuận tiền di động là nhằm cung cấp cho người dân ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo thêm phương tiện thanh toán mới. Trong khi các ngân hàng có thể tiếp cận tương đối người dân ở thành thị, hướng tới những giao dịch lớn, khách hàng lớn, những đối tượng người dân ở nông thôn, vùng sâu khó vươn tới được. Với ví điện tử và Mobile Money mỗi bên sẽ có một đối tượng khác nhau để phục vụ. Mobile Money có thế mạnh khi tiếp cận khách hàng vùng sâu, vùng xa, những đối tượng chưa có tài khoản ngân hàng, đáp ứng được các giao dịch nhỏ lẻ chủ yếu thực hiện trên điện thoại di động. Trong khi, với ví điện tử, khách hàng cần có tài khoản mở tại ngân hàng liên kết. Điều này sẽ tạo nên hệ sinh thái đầy đủ cho lĩnh vực tài chính. Và đích đến cuối cùng là để người dân thuận tiện giao dịch, thanh toán dịch vụ. Khi đó mạng lưới của công ty viễn thông sẽ hỗ trợ việc cung cấp giải pháp tài chính toàn diện đến người dân, phổ cập nhanh hiệu quả với chi phí thấp hơn.
Tuy nhiên, xét về độ rủi ro, đối với dịch vụ Mobile Money, việc định danh, xác thực (KYC) khách hàng do các doanh nghiệp viễn thông tự thiết lập có thể không đảm bảo KYC chính xác khách hàng, đặc biệt trong tình trạng SIM rác (sử dụng thông tin không chính danh để đăng ký thông tin thuê bao, kích hoạt sẵn SIM thuê bao), mua bán SIM kích hoạt sẵn vẫn còn khá phổ biến tại Việt Nam hiện nay. Từ đó, dẫn tới các hành vi mạo danh khách hàng trong việc mở và sử dụng Mobile Money, thực hiện các giao dịch giả mạo, gian lận, giao dịch bất hợp pháp bằng Mobile Money.
Bên cạnh đó là rủi ro trong công tác phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố; rủi ro phát sinh từ giao dịch tiền mặt khi các doanh nghiệp viễn thông khó có thể kiểm soát chính xác số lượng, giá trị tiền mặt các điểm kinh doanh đã nhận của khách hàng; rủi ro trong công tác kho quỹ, an toàn kho quỹ đối với các điểm kinh doanh; rủi ro nhận tiền giả khi thực hiện giao dịch thu/chi tiền mặt trực tiếp; rủi ro xảy ra trong trường hợp các khách hàng không đủ khả năng chi trả.
Ngoài ra là vấn đề kỹ thuật công nghệ, hạ tầng viễn thông, cơ sở vật chất, không đáp ứng các điều kiện an toàn, bảo mật, gây lộ, lọt thông tin của khách hàng, mất tiền trên tài khoản Mobile Money của khách hàng.
Trong khi đó, nếu xét về độ an toàn, thì các ví điện tử có thể chiếm ưu thế hơn nhờ nền tảng công nghệ bảo mật đối với thông tin khách hàng của các ngân hàng, đặc biệt khi khách hàng mở ví điện tử sẽ có những yêu cầu chặt chẽ hơn về thông tin và liên kết với tài khoản thanh toán.
Cụ thể, theo Thông tư 23, khách hàng phải hoàn thành việc liên kết ví điện tử với tài khoản thanh toán hoặc thẻ ghi nợ của khách hàng mở tại ngân hàng liên kết trước khi khách hàng sử dụng ví điện tử; ví điện tử phải được liên kết với tài khoản thanh toán bằng đồng Việt Nam hoặc thẻ ghi nợ (có gắn với tài khoản thanh toán bằng đồng Việt Nam) của khách hàng mở tại ngân hàng liên kết; Tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử phải thỏa thuận với ngân hàng liên kết hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ chuyển mạch tài chính và dịch vụ bù trừ điện tử về quy trình, cách thức liên kết ví điện tử với tài khoản thanh toán hoặc thẻ ghi nợ của khách hàng.
Điều này đảm bảo an toàn thông tin và tài khoản cho cả khách hàng và ngân hàng, tránh những hành vi gian lận, lừa đảo, thậm chí là rửa tiền. Quy định này cũng phù hợp với bản chất dịch vụ trung gian thanh toán là trung gian kết nối, truyền dẫn và xử lý dữ liệu điện tử các giao dịch thanh toán giữa tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và người sử dụng dịch vụ thanh toán.
Tài liệu tham khảo:
- Thông tư 23/2019/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 của Thống đốc NHNN hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán;
- Cổng thông tin điện tử NHNN: sbv.gov.vn;
- Trang tin điện tử của Tổng cục Thống kê - Bộ Kế hoạch và Đầu tư: consosukien.vn.
Phạm Linh Anh
Theo Chuyên đề CN và NHS số 4/2020