Ngày 06/4/2023, tại Hà Nội, Tổng cục Thống kê tổ chức họp báo công bố số liệu thống kê tình hình lao động việc làm quý I/2023. Ông Nguyễn Trung Tiến - Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Thống kê chủ trì buổi họp báo.
Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Trung Tiến chủ trì buổi họp báo
Tại buổi họp báo, đại diện Tổng cục Thống kê, ông Phạm Hoài Nam, Vụ trưởng Vụ Thống kê Dân số và Lao động trình bày Báo cáo tổng quan. Theo đó, thị trường lao động quý I/2023 tiếp tục duy trì đà phục hồi, số người có việc làm quý I/2023 và thu nhập bình quân tháng của người lao động tiếp tục tăng so với quý trước và so với cùng kì năm trước. Bên cạnh đó, tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động giảm so với quý trước và cùng kì năm trước.
Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý I/2023 là 52,2 triệu người, tăng 88,7 nghìn người so với quý trước và tăng hơn một triệu người so với cùng kì năm trước. Tỉ lệ tham gia lực lượng lao động là 68,9%, không thay đổi so với quý trước và tăng 0,8 điểm phần trăm so với cùng kì năm trước. Tỉ lệ tham gia lực lượng lao động của nữ giới là 62,9% và của tỉ lệ này của nam giới là 75,3%. Tỉ lệ tham gia lực lượng lao động khu vực thành thị là 65,2%, trong khi đó tỉ lệ này ở nông thôn là 71,3%. Tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ là 26,4%, không thay đổi so với quý trước và cao hơn 0,3 điểm phần trăm so với cùng kì năm trước.
Trong tổng số 23,5 triệu người từ 15 tuổi trở lên không tham gia thị trường lao động (ngoài lực lượng lao động) của quý I/2023, có 12,2 triệu người trong độ tuổi lao động, tập trung nhiều nhất ở nhóm 15 - 19 tuổi (5,2 triệu người).
Số người từ 15 tuổi trở lên có việc làm quý I/2023 là 51,1 triệu người, tăng 113,5 nghìn người so với quý trước và tăng 1,1 triệu người so với cùng kì năm trước. Trong tổng số 51,1 triệu lao động có việc làm, lao động trong khu vực dịch vụ chiếm tỉ trọng lớn nhất với 39,0%, tương đương gần 20,0 triệu người, tiếp đến là lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng, chiếm 33,9%, tương đương 17,3 triệu người. Lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỉ trọng thấp nhất, 27,1%, tương đương 13,8 triệu người. So với quý trước và cùng kì năm trước, quy mô lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản đều giảm lần lượt là 285,6 nghìn người và 53,6 nghìn người; lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 360,9 nghìn người so với quý trước và tăng 566,9 nghìn người so với cùng kì năm trước; lao động trong ngành dịch vụ tăng 38,1 nghìn người so với quý trước và tăng 599,3 nghìn người so với cùng kì năm trước.
Số người có việc làm phi chính thức chung (bao gồm cả lao động làm việc trong hộ nông nghiệp) trong quý I/2023 là 33,0 triệu người, giảm 327,1 nghìn người so với quý trước và giảm 322,4 nghìn người so với cùng kì năm trước. Tỉ lệ lao động có việc làm phi chính thức chung quý I/2023 là 64,6%, giảm 0,8 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 2,1 điểm phần trăm so với cùng kì năm trước.
Số người thiếu việc làm trong độ tuổi quý I/2023 là khoảng 885,5 nghìn người, giảm 12,4 nghìn người so với quý trước và giảm 443,1 nghìn người so với cùng kì năm trước. Tỉ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý này là 1,94%, giảm 0,04 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 1,07 điểm phần trăm so với cùng kì năm trước. Tỉ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị thấp hơn so với khu vực nông thôn (tương ứng là 1,31% và 2,34%). Như vậy, tình hình thiếu việc làm của người lao động giảm so với quý trước và cùng kì năm trước.
Thu nhập bình quân tháng của người lao động quý I/2023 là 7,0 triệu đồng, tăng 197 nghìn đồng so với quý trước và tăng 640 nghìn đồng so với cùng kì năm trước. Thu nhập bình quân tháng của lao động nam cao gấp 1,36 lần thu nhập bình quân tháng của lao động nữ. Thu nhập bình quân của lao động ở khu vực thành thị cao gấp 1,41 lần khu vực nông thôn.
Trong ba khu vực kinh tế, lao động làm việc trong khu vực dịch vụ có tốc độ tăng thu nhập cao nhất. So với cùng kì năm 2022, thu nhập bình quân tháng của lao động làm việc trong dịch vụ là 8,3 triệu đồng, tăng 10,1%, tương ứng tăng 766 nghìn đồng. Lao động làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản có thu nhập bình quân là 4,1 triệu đồng, tăng 9,2%, tương ứng tăng khoảng 345 nghìn đồng. Lao động làm việc trong khu vực công nghiệp và xây dựng là 7,9 triệu đồng, là khu vực có tốc độ tăng thấp nhất trong ba khu vực kinh tế, tăng 9,0%, tương ứng tăng khoảng 655 nghìn đồng so với cùng kì năm trước.
Xét theo ngành kinh tế, một số ngành kinh tế ghi nhận tốc độ tăng so với quý trước như: Lao động làm việc trong ngành khai khoáng có thu nhập bình quân là 10,3 triệu đồng, tăng 6,7%, tương ứng tăng 640 nghìn đồng so với quý trước; thu nhập bình quân tháng của lao động trong ngành bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy là 8,2 triệu đồng, tăng 3,8%, tương ứng tăng 300 nghìn đồng so với quý trước; ngành vận tải, kho bãi lao động có thu nhập bình quân tháng là 9,6 triệu đồng, tăng 2,7%, tương ứng tăng 255 nghìn đồng so với quý trước.
Toàn cảnh buổi họp báo
Tuy nhiên, quý I/2023 chứng kiến sự sụt giảm về thu nhập bình quân tháng của người lao động trong một số ngành kinh tế như: Thu nhập bình quân của lao động ngành hoạt động kinh doanh bất động sản là 10,5 triệu đồng, giảm 2,6%, tương ứng giảm 275 nghìn đồng; thu nhập bình quân của lao động ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước là 9,8 triệu đồng, giảm 1,3%, tương ứng giảm 125 nghìn đồng; ngành xây dựng lao động có thu nhập bình quân là 7,8 triệu đồng, giảm khoảng 1%, tương ứng giảm 41 nghìn đồng.
Thu nhập bình quân của lao động làm công hưởng lương quý I/2023 là 7,9 triệu đồng, tăng 2,6%, tương ứng tăng 204 nghìn đồng so với quý trước. So với cùng kì năm 2022, thu nhập bình quân của lao động làm công hưởng lương quý I/2023 tăng 7,9%, tương ứng tăng 578 nghìn đồng. Lao động nam làm công hưởng lương có thu nhập bình quân là 8,3 triệu đồng, cao hơn 1,14 lần thu nhập bình quân của lao động nữ (7,3 triệu đồng). Thu nhập bình quân của lao động làm công hưởng lương làm việc ở khu vực thành thị cao hơn 1,25 lần lao động làm việc ở khu vực nông thôn (8,9 triệu đồng so với 7,1 triệu đồng).
Số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý I/2023 là khoảng 1,05 triệu người, giảm 34,6 nghìn người so với quý trước và giảm 65,1 nghìn người so với cùng kì năm trước. Tỉ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,25%, giảm 0,07 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,21 điểm phần trăm so với cùng kì năm trước.
Tỉ lệ thất nghiệp của thanh niên 15 - 24 tuổi là 7,61%, giảm 0,09 điểm phần trăm so với quý trước và giảm 0,32 điểm phần trăm so với cùng kì năm trước. Tỉ lệ thất nghiệp của thanh niên khu vực thành thị là 9,46%, cao hơn 2,81 điểm phần trăm so với khu vực nông thôn.
Số lao động làm công việc tự sản tự tiêu liên tục giảm dần qua các quý. Con số này của quý I/2023 là 4,0 triệu người, giảm 0,2 triệu người so với quý trước và giảm 0,8 triệu người so với cùng kì năm trước. Số lao động này chủ yếu ở khu vực nông thôn. Gần hai phần ba số người làm công việc tự sản tự tiêu quý I/2023 là nữ giới (chiếm 62,9%).
VD