Trong khuôn khổ Dự án “Dịch vụ ngân hàng trên điện thoại di động - Phổ cập dịch vụ tài chính và tạo quyền năng kinh tế cho người thu nhập thấp và phụ nữ ở Việt Nam” (Dự án Mobile Banking), ngày 23/5/2023, tại Hà Nội, Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam (NHCSXH) phối hợp với Quỹ châu Á và Mastercard với sự hỗ trợ của Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia tổ chức Tọa đàm “Tăng cường tài chính số - Thúc đẩy tài chính toàn diện cho các nhóm yếu thế tại Việt Nam”.
Tọa đàm nhằm tăng cường nhận thức về ý nghĩa của tài chính số trong thúc đẩy thực hiện tài chính toàn diện ở Việt Nam thông qua chia sẻ kết quả triển khai Dự án Mobile Banking; đồng thời, chia sẻ kinh nghiệm của NHCSXH trong quá trình giúp khách hàng, đặc biệt là người nghèo và các đối tượng chính sách ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa từng bước tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trên điện thoại di động, qua đó góp phần thay đổi thói quen, tư duy của người dân nghèo, những người yếu thế, đặc biệt là phụ nữ khi còn e ngại tiếp cận sử dụng các ứng dụng công nghệ trong tiến trình chuyển đổi số.
Tham dự Tọa đàm có ông Tô Huy Vũ, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN); bà Nguyễn Thị Hiền, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng, NHNN; ông Hoàng Minh Tế, Phó Tổng Giám đốc NHCSXH; ông David Gottlieb, Tham tán kinh tế, Đại sứ quán Australia tại Việt Nam; ông Filip Graovac, Phó Trưởng Đại diện, Quỹ châu Á tại Việt Nam; bà Winne Wong, Giám đốc Quốc gia Mastercard tại Việt Nam; ông Ketut Ariadi Kusuma, chuyên gia tài chính cao cấp của Ngân hàng Thế giới (World Bank); đại diện lãnh đạo các đơn vị của Văn phòng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; các Đại sứ quán, các tổ chức quốc tế tại Việt Nam, các cơ quan, ban, ngành liên quan...
Phát biểu khai mạc Tọa đàm, ông Tô Huy Vũ, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, NHNN cho biết, thực tiễn phát triển kinh tế toàn cầu ngày càng cho thấy mô hình tăng trưởng kinh tế truyền thống với mục tiêu tăng trưởng nhanh đã dần bộc lộ những hạn chế khi vấn đề nghèo đói vẫn còn thách thức dai dẳng. Bất bình đẳng về thu nhập ngày càng gia tăng, dẫn tới một bộ phận người dân bị đặt ra ngoài lề của sự phát triển chung và là nhân tố dẫn tới bất ổn về xã hội và chính trị. Mô hình tăng trưởng bao trùm hướng tới bền vững trong dài hạn, trong đó đảm bảo sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội nhằm mục tiêu cuối cùng là phát triển con người đã trở thành mục tiêu chung của các quốc gia và khu vực.
Trong bối cảnh đó, tài chính toàn diện - được hiểu là việc mọi người dân và doanh nghiệp được tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính cơ bản một cách thuận tiện, phù hợp nhu cầu, với chi phí hợp lí - được đặt ra ở cấp độ toàn cầu như một trụ cột quan trọng để hướng tới mô hình tăng trưởng bao trùm bền vững. Những năm gần đây, quá trình triển khai tài chính toàn diện trên thế giới và tại Việt Nam đã thu được những kết quả tích cực, giúp cho nhiều người dân và doanh nghiệp được tiếp cận với dịch vụ tài chính chính thống hơn, thu hẹp khoảng cách nông thôn và thành thị, qua đó thúc đẩy luân chuyển dòng vốn, tăng đầu tư, mở rộng cơ sở hạ tầng tài chính, sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội, cải thiện các chỉ số về tăng trưởng, phát triển và giảm nghèo, góp phần cho phát triển bền vững.
Sự phát triển nhanh chóng và không ngừng của kỉ nguyên số đã tạo ra những thay đổi vượt bậc trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện. Tài chính số - hay là việc cung ứng sản phẩm, dịch vụ tài chính trên các nền tảng số - đã được chứng minh giúp giảm bớt các rào cản chính trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện, qua đó giúp tăng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính có chất lượng cho người dân. Đặc biệt, trong giai đoạn đại dịch Covid-19, tài chính số càng cho thấy tầm quan trọng trong việc hỗ trợ người dân tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính một cách thuận tiện và hiệu quả, nhất là thời điểm giãn cách xã hội, thông qua các nền tảng số như thiết bị di động, mạng internet, thẻ liên kết với các hệ thống thanh toán số… mà không cần đến tiền mặt cũng như các điểm giao dịch ngân hàng truyền thống.
Mặc dù nhiều kết quả đáng khích lệ đã đạt được nhờ tài chính số, tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức đặt ra và cần có biện pháp củng cố như vấn đề về quản lí, giám sát, bảo mật, minh bạch thông tin, an toàn hệ thống, chất lượng cơ sở hạ tầng cũng như niềm tin, hiểu biết, năng lực của khách hàng vào hệ thống tài chính - ngân hàng và bảo vệ người tiêu dùng tài chính để có thể tối đa hóa được những lợi ích mà tài chính toàn diện mang lại.
Phát biểu tại Tọa đàm, ông Hoàng Minh Tế, Phó Tổng Giám đốc NHCSXH thông tin, Dự án Mobile Banking giai đoạn II được NHCSXH thực hiện từ ngày 15/7/2019 và kết thúc vào tháng 4/2023 do Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia tài trợ thông qua Quỹ châu Á tại Việt Nam. Mục tiêu chính của dự án là tăng cường và cải thiện sự tiếp cận tới các dịch vụ tài chính toàn diện cho các hộ nghèo, hộ thu nhập thấp và đối tượng chính sách khác, đặc biệt là các doanh nghiệp vi mô do phụ nữ điều hành, những đối tượng hiện đang thiếu sự tiếp cận các dịch vụ tài chính chính thức.
“Tài chính số thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam” là chủ đề dành được sự quan tâm trên phạm vi toàn cầu trong những năm gần đây. NHCSXH xác định tài chính toàn diện là hướng phát triển quan trọng để đạt được mục tiêu cung cấp các dịch vụ chất lượng, thuận tiện đến cho khách hàng là người nghèo và các đối tượng chính sách, đặc biệt là khách hàng ở những khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Trong những năm qua, NHCSXH đã tiến hành thực hiện các bước đi cần thiết để tăng cường phát triển tài chính toàn diện trong cộng đồng khách hàng của ngân hàng góp phần vào quá trình thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 149/QĐ-TTg ngày 22/01/2020.
Ông Hoàng Minh Tế, Phó Tổng Giám đốc NHCSXH phát biểu tại Tọa đàm
Với sự hỗ trợ của Dự án, từ năm 2017, NHCSXH đã tiến hành triển khai công nghệ số vào hoạt động ngân hàng, bắt đầu từ dịch vụ tin nhắn SMS với nội dung nhắc lịch trả nợ, nhắc nợ và số dư tài khoản hằng tháng. Qua đó, nâng cao được tính minh bạch và hiệu quả hoạt động, giúp khách hàng tiếp cận với các dịch vụ tài chính toàn diện, đồng thời cải thiện chất lượng tín dụng và tăng hiệu quả chi phí cho cả khách hàng và ngân hàng.
Năm 2021, ứng dụng Quản lí tín dụng chính sách (QLTDCS) được triển khai xây dựng với mục đích hỗ trợ người dùng là cán bộ NHCSXH và các đối tượng tham gia QLTDCS tương tác, theo dõi, nắm bắt tình hình thực tế, giúp cho công tác chỉ đạo, điều hành và triển khai nhiệm vụ của các tổ chức và cá nhân liên quan đến hoạt động tín dụng chính sách được triển khai nhanh chóng, thuận lợi, tiết giảm chi phí, nhân lực nhưng đạt hiệu quả cao.
Tiếp đó, nhằm đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ trên nền tảng công nghệ tiên tiến, tăng cường và cải thiện sự tiếp cận các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt cho người nghèo và các đối tượng yếu thế, NHCSXH đã ra mắt ứng dụng VBSP SmartBanking - dịch vụ ngân hàng trên điện thoại di động thông minh (Mobile Banking) giúp khách hàng giao dịch với NHCSXH mọi lúc, mọi nơi.
Ông David Gottlieb, Tham tán kinh tế, Đại sứ quán Australia tại Việt Nam cho rằng lợi ích về giáo dục tài chính số cho khách hàng là nâng cao ý thức tiết kiệm, khả năng lập kế hoạch hoàn trả vốn vay của khách hàng. Tiết giảm thời gian từ hoạt động trả nợ của khách hàng, quản lí vốn vay cho tổ trưởng, có thể tham gia các hoạt động tạo thu nhập. Bên cạnh đó, khách hàng là nữ có thêm tự tin để cùng bàn bạc, đưa ra quyết định về các hoạt động tạo thu nhập và thúc đẩy cơ hội tham gia các hoạt động cộng đồng.
Ông David Gottlieb, Tham tán kinh tế, Đại sứ quán Australia tại Việt Nam phát biểu tại Tọa đàm
Tham luận tại Tọa đàm, bà Nguyễn Thị Hiền, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng, NHNN nêu bật vai trò quan trọng của việc phát triển các dịch vụ ngân hàng di động/tài chính số cho người dân, đặc biệt là các đối tượng yếu thế trong thực hiện các mục tiêu của Chiến lược tài chính toàn diện. Cụ thể, ở phương diện vi mô, tài chính số: (i) Giúp người dân, doanh nghiệp tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ tài chính với chi phí hợp lí, thuận tiện và an toàn hơn so với các sản phẩm, dịch vụ tài chính truyền thống; (ii) Giúp các nhà cung cấp dịch vụ tài chính tiết giảm chi phí, tùy biến hơn trong thiết kế sản phẩm, dịch vụ, từ đó mở ra tiềm năng lớn trong việc nâng cao khả năng tiếp cận tài chính.
Với việc áp dụng công nghệ, các dịch vụ tài chính - ngân hàng có thể được cung cấp ở bất cứ nơi đâu, kể cả không có sự hiện diện của ngân hàng. Nhờ đó, những rào cản đối với tài chính toàn diện như thu nhập, chi phí và khoảng cách địa lí gần như được xóa bỏ, giúp cho những người nghèo, người thu nhập thấp - những đối tượng trước đây chưa từng tiếp cận với dịch vụ ngân hàng có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính thuận lợi hơn. Các mô hình kinh doanh mới dựa trên công nghệ số như ngân hàng di động (Mobile Banking), đại lí ngân hàng (Agent Banking), cùng với các sản phẩm, dịch vụ như ví điện tử (E-wallet), tiền di động (Mobile Money) tạo ra các phương thức giao dịch mới, dễ dàng tiếp cận hơn cho người dân, kể cả những người không có tài khoản ngân hàng sống ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, qua đó thúc đẩy mạnh mẽ hơn tài chính toàn diện.
Ở phương diện vĩ mô, tài chính số giúp nâng cao khả năng tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính cho người dân, doanh nghiệp, qua đó cải thiện đáng kể thu nhập và chất lượng cuộc sống của họ. Việc hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng một cách thuận tiện sẽ giúp họ có thêm cơ hội mở rộng sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đối với người dân, trong trường hợp thiên tai, mất mùa, dịch bệnh, nguồn vốn vay ngân hàng sẽ hỗ trợ họ vượt qua khó khăn, sớm khôi phục lại sản xuất, kinh doanh; người nghèo tránh được vòng luẩn quẩn nợ nần khi phải đi vay ở khu vực không chính thức với lãi suất cao. Nhờ đó, tài chính số có thể giúp xóa đói, giảm nghèo, giảm bất bình đẳng thu nhập một cách gián tiếp.
Chia sẻ về kết quả thực hiện chuyển đổi số và triển khai Dự án Mobile Banking, bà Lưu Thị Thảo, Phó Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin NHCSXH cho biết, mục tiêu của NHCSXH trong Chiến lược phát triển NHCSXH đến năm 2030 là “Xây dựng nền tảng ngân hàng số, đa dạng hóa sản phẩm, phát triển các loại hình dịch vụ phù hợp, hiện đại hóa công tác quản trị điều hành của NHCSXH…”.
Sau gần 04 năm triển khai dịch vụ tin nhắn SMS, tính đến tháng 6/2022, đã có gần 32 triệu tin nhắn được gửi thành công đến gần 5,9 triệu khách hàng có đăng kí số điện thoại di động với Ngân hàng (chiếm 90% tổng số khách hàng của NHCSXH). Đối với khách hàng, nhận tin nhắn thông báo một tháng trước ngày trả nợ và đóng tiết kiệm đã giúp họ chủ động hơn và lập kế hoạch tốt hơn trong quản lí tài chính và tiết kiệm.
Sau gần 02 năm triển khai ứng dụng QLTDCS, đến nay, đã có 47.786 người/26 tỉnh, thành phố sử dụng, trong đó có hơn 25.759 là tổ trưởng tổ tiết kiệm và vay vốn (TK&VV). Ứng dụng này đều dễ dàng tải xuống qua điện thoại thông minh, cho phép cán bộ các tổ chức chính trị - xã hội, Ban đại diện, Hội đồng quản trị NHCSXH, tổ trưởng tổ TK&VV, trưởng thôn, cán bộ giảm nghèo của địa phương có thông tin kịp thời và thực hiện hiệu quả hơn các nghiệp vụ trong quy trình cho vay và QLTDCS.
Đối với ứng dụng VBSP Smartbanking được triển khai từ tháng 6/2022 đến ngày 21/5/2023, đã có 86.516 tài khoản người dùng với 667 nghìn giao dịch, tương ứng với số tiền trên 6.150 tỉ đồng. Ứng dụng VBSP SmartBanking đã có tác động tích cực, giúp người dân, đặc biệt là phụ nữ có điều kiện tiếp cận nhiều hơn nữa với các dịch vụ tài chính đa dạng và hiệu quả, góp phần kết nối người dân ở các địa bàn của NHCSXH với nền kinh tế số.
Đánh giá hiệu quả tác động dịch vụ ngân hàng trên điện thoại di động phổ cập dịch vụ tài chính và tạo quyền năng kinh tế cho người thu nhập thấp và phụ nữ ở Việt Nam, đại diện Nhóm chuyên gia, bà Nguyễn Thu Hương, chuyên gia tư vấn độc lập cho biết, đối với khách hàng của NHCSXH: Tin nhắn SMS giúp nâng cao nhận thức của khách hàng về sử dụng điện thoại di động trong quản lí khoản vay và tiếp cận kiến thức tài chính kĩ thuật số; tăng tính minh bạch trong quản lí vốn vay, cải thiện kế hoạch thanh toán vốn vay. Ứng dụng QLTDCS tăng tính minh bạch trong quản lí tín dụng chính sách; nâng cao ý thức tiết kiệm của khách hàng nữ; nâng cao khả năng lập kế hoạch tài chính cá nhân; ý thức trả nợ đúng hạn mang lại cơ hội vay vốn NHCSXH; tiết kiệm thời gian, giảm thời gian chờ giải ngân vốn vay; lợi ích gián tiếp từ các mô hình thành công như giáo dục tài chính. Ứng dụng VBSP SmartBanking: Nâng cao nhận thức của khách hàng về các dịch vụ ngân hàng số; nâng cao trải nghiệm của khách hàng với dịch vụ ngân hàng số của NHCSXH; triển vọng thúc đẩy kiến thức chuyển đổi số và thanh toán không dùng tiền mặt với khách hàng là đối tượng chính sách.
Để dịch vụ ngân hàng trên điện thoại di động phổ cập dịch vụ tài chính và tạo quyền năng kinh tế cho người thu nhập thấp và phụ nữ ở Việt Nam, bà Nguyễn Thu Hương đưa ra một số khuyến nghị:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cấp các tính năng ứng dụng VBSP SmartBanking để đáp ứng tốt hơn trải nghiệm ngân hàng số của người dùng/khách hàng hiện tại và thúc đẩy hành vi sử dụng thực sự.
Thứ hai, tiếp tục tăng cường truyền thông về ứng dụng VBSP SmartBanking, định hướng mở rộng sang các phân khúc khách hàng khác kết hợp, lồng ghép vào các sáng kiến truyền thông đang được phát động trong hệ thống NHCSXH.
Thứ ba, tiếp tục nâng cấp các tính năng, giao diện của ứng dụng QLTDCS cân nhắc theo hướng thân thiện với người dùng là người cao tuổi...
Thứ tư, tiếp tục tăng cường năng lực cho đội ngũ NHCSXH, đảm bảo hiểu rõ các tính năng thiết yếu, tiêu chuẩn của ứng dụng QLTDCS.
Thứ năm, rà soát, xác định các mục tiêu chính sách có nội dung liên quan đến tiếp cận số hóa cho phu nữ, dân tộc thiểu số, các cộng đồng yếu thế khác trong 03 Chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình, đề án quốc gia để kết nối nguồn lực và vận động thúc đẩy độ bao phủ ngân hàng số đến các nhóm yếu thế.
Thứ sáu, thúc đẩy môi trường thể chế thuận lợi để Ban Quản lí dự án phát huy tối đa vai trò điều phối cho các chương trình tiếp theo, đồng thời nâng cao hoạt động lồng ghép giới một cách thực chất vào các chính sách NHCSXH.
Thứ bảy, xây dựng, đầu tư hiệu quả vào chiến lược nghiên cứu và phát triển cho giai đoạn chuyển đổi số tiếp theo.
Thảo luận tại Tọa đàm, bà Nguyễn Thị Hiền, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng đã thông tin về những chủ trương, chính sách của Chính phủ, NHNN nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức tài chính, trong đó có các tổ chức tài chính vi mô để cung ứng dịch vụ tài chính số cho nhóm đối tượng yếu thế.
Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 749/QĐ-TTg với ba mục tiêu: Phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số và 08 lĩnh vực ưu tiên: Y tế, giáo dục, tài chính - ngân hàng, nông nghiệp, giao thông vận tải và logistics, năng lượng, tài nguyên và môi trường, sản xuất công nghiệp.
Nhận biết được tầm quan trọng và sự tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), NHNN đã chủ động đi trước đón đầu, nghiên cứu ban hành nhiều cơ chế, chính sách thích ứng với sự phát triển của khoa học công nghệ. Để triển khai một cách đồng bộ các nội dung liên quan đến chuyển đổi số, NHNN đã xây dựng và ban hành Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021), trong đó đặt ra các mục tiêu cụ thể về chuyển đổi số đối với NHNN và các tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
NHNN và các cơ quan liên quan đang nỗ lực hoàn thiện khuôn khổ pháp lí để hiện thực hóa các nhiệm vụ, giải pháp trong Chiến lược, nhất là khuyến khích, tạo điều kiện cho các TCTD, tổ chức công nghệ tài chính, tổ chức phi ngân hàng tham gia vào chuỗi cung ứng sản phẩm, dịch vụ tài chính, đặc biệt là các sản phẩm, dịch vụ tài chính số cho các nhóm đối tượng mục tiêu của tài chính toàn diện. Cụ thể: Cho phép triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ (Mobile-Money). Sau một thời gian triển khai, kết quả đạt được là rất khả quan: Số lượng tài khoản Mobile-Money được mở tại các doanh nghiệp thực hiện thí điểm là hơn 2,835 triệu tài khoản, trong đó số lượng tài khoản đăng kí và sử dụng dịch vụ ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo là hơn 1,997 triệu tài khoản (chiếm 70,44% tổng số tài khoản). Hơn 8,8 nghìn điểm kinh doanh được thiết lập, trong đó, số lượng điểm kinh doanh thuộc vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo là hơn 5,4 nghìn điểm (chiếm khoảng 61,48% tổng số điểm kinh doanh được thiết lập); nhiều thông tư đã được kịp thời chỉnh sửa, bổ sung, ban hành mới để tạo điều kiện cho việc ứng dụng công nghệ số trong phát triển và cung ứng sản phẩm, dịch vụ tài chính như mở tài khoản, phát hành thẻ bằng phương thức điện tử, chuẩn thanh toán thông qua mã phản hồi nhanh QR, tiêu chuẩn thẻ chíp nội địa…; đang khẩn trương hoàn thiện và trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012; Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng. Đặc biệt, NHNN đã xây dựng và trình Chính phủ Dự án Luật Các TCTD (sửa đổi) xem xét trình Quốc hội cho ý kiến tại Kì họp thứ 5, Quốc hội khóa XV (tháng 5/2023), trình Quốc hội thông qua tại Kì họp thứ 6, Quốc hội khóa XV (tháng 10/2023). Trong đó, một trong những quan điểm xây dựng Luật này là đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ số trong lĩnh vực ngân hàng và phát triển những sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại nhằm cung ứng dịch vụ ngân hàng cơ bản một cách thuận tiện, chi phí thấp tới người dân không có tài khoản ngân hàng ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
NHNN cũng đã trình và được Thủ tướng Chính phủ đồng ý việc xây dựng Nghị định về hoạt động của chương trình, dự án tài chính vi mô (thay thế Quyết định số 20/2017/QĐ-TTg ngày 12/6/2017). Hiện nay, NHNN đang xây dựng dự thảo Thông tư thay thế Thông tư số 03/2018/TT-NHNN ngày 23/02/2018 quy định về cấp Giấy phép, tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính vi mô.
Là một đối tác quan trọng của Chính phủ Việt Nam, World Bank đã có những hỗ trợ tích cực cho Việt Nam trong việc xây dựng và thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện. Thảo luận tại Tọa đàm, ông Ketut Ariadi Kusuma, chuyên gia tài chính cao cấp của World Bank đã chỉ ra những cơ hội và thách thức đặt ra cho Việt Nam trong thực hiện Chiến lược, đặc biệt trong việc thúc đẩy tài chính số cho nhóm đối tượng yếu thế ở Việt Nam. Theo đó, Việt Nam còn rất nhiều dư địa để phát triển, tuy nhiên cần phải đầu tư về công nghệ hơn nữa, internet tốc độ cao, băng thông rộng, cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin, cơ chế Sandbox, vấn đề về ứng dụng trí tuệ nhân tạo, bảo vệ người tiêu dùng, giáo dục tài chính cũng rất quan trọng.
Theo bà Winnie Wong, Giám đốc quốc gia Mastercard tại Việt Nam, Mastercard là một trong những công ty đa quốc gia tiên phong về công nghệ và giải pháp thanh toán. Hiện nay, Mastercard đang hợp tác với NHCSXH để xây dựng nền tảng tài chính số cho nhóm đối tượng yếu thế ở Việt Nam. Mastercard có hàng chục nghìn khách hàng trải rộng khắp các quốc gia trên thế giới; Mastercard đặt mục tiêu đến năm 2025 có 1 tỉ người tham gia vào hệ thống tài chính toàn diện, trong đó vấn đề tài chính bao trùm là rất quan trọng.
Mastercard đưa công nghệ hiện đại vào Việt Nam, đảm bảo phải đơn giản, an toàn, bảo mật; tham gia cùng NHCSXH, tăng cường sử dụng công nghệ tối tân, thực hiện một cách hiệu quả nhất với chi phí hợp lí nhất; giúp thị trường vận hành đơn giản, nhanh chóng hơn, áp dụng đổi mới sáng tạo, xây dựng phát triển năng lực, tạo nên sự thay đổi, cùng Việt Nam tiến về phía trước với tốc độ nhanh hơn.
Là tổ chức đi đầu trong cung ứng các dịch vụ tài chính vi mô cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác, NHCSXH đã đạt được những thành công nhất định trong quá trình chuyển đổi số, đặc biệt là đạt được các kết quả khả quan trong thực hiện dự án Mobile Banking. Bên cạnh đó, một số khó khăn cũng được ông Hoàng Minh Tế, Phó Tổng Giám đốc NHCSXH chia sẻ tại Tọa đàm:
Thứ nhất, khách hàng của NHCSXH chủ yếu là người có thu nhập thấp, sống ở vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí còn thấp, khả năng tiếp cận công nghệ rất hạn chế. NHCSXH đưa một sản phẩm công nghệ triển khai trên tệp khách hàng này là hết sức khó khăn, do đó NHCSXH rất thận trọng trong việc triển khai, từ quy mô nhỏ phát triển lên quy mô lớn, song song với việc triển khai các sản phẩm thì vấn đề đào tạo, nâng cao kĩ năng sử dụng, sự hiểu biết của người sử dụng đảm bảo cho việc sử dụng phải thực sự an toàn để chiếm được lòng tin của khách hàng…
Thứ hai, khả năng tài chính của NHCSXH còn hạn chế so với các TCTD khác. Để đầu tư hạ tầng cho hệ thống vận hành an toàn, NHCSXH cần phải có lượng vốn lớn, do vậy NHCSXH phải tích góp trong nhiều năm và chia nhỏ dự án để đầu tư hiệu quả.
Thứ ba, để triển khai, vận hành, đảm bảo an ninh, an toàn cho cả hệ thống lớn chỉ cán bộ làm công tác về công nghệ thông tin của NHCSXH là chưa đủ, cần phải có nguồn nhân lực là chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ. Thời gian tới, NHCSXH sẽ hợp tác với các đơn vị trong lĩnh vực công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả vận hành dự án.
Đánh giá về mô hình hợp tác giữa NHCSXH, Quỹ châu Á và Mastercard trong Dự án Mobile Banking, ông Filip Graovac, Phó Trưởng Đại diện Quỹ châu Á phân tích: Mô hình quan hệ công tư cũng là loại hình rất được quan tâm bởi nó đem lại giá trị cho từng bên, đồng thời đem lại cho từng đối tác những nguồn sức mạnh mới. Quỹ châu Á mong muốn sẽ có thêm hàng tỉ người tham gia vào tài chính toàn diện. Để làm được như vậy thì cần có năng lực của các bên, chẳng hạn Mastercard đem lại năng lực về công nghệ thanh toán hay NHCSXH có hàng triệu khách hàng - đây là một mạng lưới rất rộng lớn; chung tay tham gia một mạng lưới để thúc đẩy nâng cao năng lực cho các bên; từ những sức mạnh có sẵn, cần phát triển hơn nữa với sự tham gia của các đối tác, đem lại lợi ích cho từng đối tác.
Với sự tham gia của các đối tác về mặt công nghệ, sự tham gia của các định chế về tài chính vi mô để xây dựng các chương trình đào tạo và xây dựng những mô hình phát triển năng lực, phát triển tri thức, phát triển niềm tin, từ đó vận dụng và phát triển những dịch vụ mới như dịch vụ về công nghệ tài chính hỗ trợ cho phụ nữ, doanh nghiệp vi mô. Công nghệ đem lại cơ hội để lấp đầy những khoảng cách giúp cho mọi người thoát khỏi cảnh nghèo, tuy nhiên, công nghệ cũng có mặt trái như làm dãn hơn nữa khoảng cách giàu nghèo.
Các diễn giả trao đổi, thảo luận tại Tọa đàm
Từ góc độ hoạt động của NHNN, với khuôn khổ pháp lí hiện hành, bà Nguyễn Thị Hiền, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng đưa ra một số giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới để thúc đẩy hơn nữa tài chính số cho nhóm đối tượng yếu thế, đóng góp thực hiện thành công tài chính toàn diện ở Việt Nam.
Thứ nhất, đối với các cơ quan quản lí, các cơ quan liên quan, các địa phương
Tất cả các bộ, ngành, cơ quan, địa phương cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa của Chiến lược tài chính toàn diện trong việc đạt được các mục tiêu quốc gia, nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; đồng thời, tổ chức triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp của Chiến lược.
Các bộ, ngành tiếp tục nỗ lực hơn nữa trong việc hoàn thiện cơ chế chính sách, tạo thuận lợi để lĩnh vực tài chính - ngân hàng bứt phá, đổi mới sáng tạo nhưng vẫn chú trọng tới công tác đảm bảo an ninh mạng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, hạn chế rủi ro, thách thức.
Thứ hai, đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính
Luôn xác định khách hàng là trọng tâm trong phát triển và cung ứng sản phẩm, dịch vụ tài chính. Xây dựng Chiến lược/định hướng hoạt động phù hợp với quá trình chuyển đổi số ngành Ngân hàng - Tài chính; tiếp tục ứng dụng mạnh mẽ công nghệ hiện đại vào các hoạt động nghiệp vụ, hoàn thiện các quy trình quản lí rủi ro, đảm bảo an ninh, an toàn cho cả tổ chức và khách hàng, nhất là tăng cường bảo mật và các giải pháp xác thực khách hàng cho giao dịch điện tử; quan tâm hơn nữa đến việc thường xuyên thông tin cập nhật các hình thức lừa đảo trong giao dịch điện tử đến khách hàng, người sử dụng cũng như đưa ra các cảnh báo đề phòng, hướng dẫn khách hàng, người sử dụng để phòng tránh các nguy cơ lừa đảo; khuyến cáo khách hàng tăng tính bảo mật thông tin trong sử dụng sản phẩm, dịch vụ tài chính số; tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo nguồn nhân lực không chỉ có kiến thức về tài chính - ngân hàng mà còn được trang bị đầy đủ kiến thức, kĩ năng về công nghệ thông tin, kĩ năng mềm để triển khai có hiệu quả các chiến lược/phương án kinh doanh cũng như hỗ trợ khách hàng một cách nhanh chóng, đúng nhu cầu, rút ngắn thời gian giao dịch khi thực hiện các giao dịch điện tử.
Thứ ba, đối với người dân và doanh nghiệp
Người dân vừa là đối tượng, vừa là chủ thể triển khai thực hiện các giải pháp của Chiến lược. Người dân là đối tượng thụ hưởng của Chiến lược tài chính toàn diện, được phổ biến, tuyên truyền về vai trò, ý nghĩa của Chiến lược; các chính sách đều hướng tới người dân; mọi người dân, doanh nghiệp đều được tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ tài chính một cách thuận tiện, phù hợp với nhu cầu, chi phí hợp lí được cung cấp một cách có trách nhiệm và bền vững; nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cho người dân; bảo vệ người tiêu dùng dịch vụ tài chính, góp phần thực hiện tốt hơn các chính sách về an sinh xã hội.
Người dân cũng là chủ thể tham gia thực hiện, thúc đẩy tài chính toàn diện, tham gia đóng góp vào việc xây dựng các chính sách của Chính phủ; gia tăng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính như tín dụng, tiết kiệm, thanh toán qua đó thúc đẩy các TCTD phát triển, đa dạng hóa sản phẩm; gia tăng tiết kiệm và quản lí tài chính hiệu quả giúp gia tăng nguồn lực trong xã hội đầu tư vào phát triển kinh tế…
Vì vậy, người dân cần nhận thức rõ vị trí, vai trò của mình trong thúc đẩy tài chính toàn diện; cần chủ động hơn trong việc tiếp cận và trang bị cho mình kiến thức về tài chính, đặc biệt là các kiến thức về sản phẩm, dịch vụ tài chính chính thức để tiếp cận đến sản phẩm, dịch vụ tài chính phù hợp nhu cầu; tạo lập thói quen tiết kiệm, kĩ năng quản lí chi tiêu, kĩ năng lập kế hoạch tài chính…
Tại Tọa đàm, các đại biểu tham dự cùng chia sẻ kinh nghiệm và kết quả thực hiện Dự án Mobile Banking của NHCSXH; thảo luận tích cực và hiệu quả về thực trạng cung cấp dịch vụ tài chính cho các nhóm yếu thế, ứng dụng công nghệ thúc đẩy tài chính toàn diện cho các đối tượng chính sách, cơ hội và thách thức trong việc phát triển dịch vụ tài chính số cho các nhóm yếu thế và các khuyến nghị thúc đẩy tài chính số tại Việt Nam; qua đó, đưa ra các khuyến nghị, giải pháp về cải cách và chính sách phù hợp, đồng thời đề xuất các cơ chế hợp tác, phối hợp giữa cơ quan quản lí, tổ chức tài chính, tổ chức quốc tế, chuyên gia độc lập… để giúp tạo dựng được một môi trường đồng bộ cho tài chính số phát triển hiệu quả, góp phần thúc đẩy tài chính toàn diện trong thời gian tới.
Toàn cảnh buổi Tọa đàm
Mai Lâm