Lịch sử nhân loại đã diễn ra ba cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN). Sau thời kỳ phát triển bùng nổ về thương mại và sản xuất toàn cầu (chủ yếu trong cuộc cách mạng về máy tính và tự động hóa - CMCN lần thứ 3), những động lực tăng trưởng trước đây trở nên kém hiệu quả, dẫn tới mức tăng trưởng của nhiều nền kinh tế thế giới suy giảm, đặc biệt tại các nước kinh tế phát triển hàng đầu, nhân loại bước vào cuộc CMCN tiếp theo, CMCN lần thứ 4 hay còn gọi là cuộc CMCN 4.0 (các cuộc CMCN được mô tả tại Hình 1). Mỗi cuộc CMCN đều mang những nét đặc trưng theo từng giai đoạn; trong đó, bản chất của cuộc CMCN lần thứ 4 là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất với các công nghệ. Với lợi thế về công nghệ, cuộc CMCN 4.0 tác động sâu sắc đối với nền kinh tế, xã hội của các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, những thành tựu công nghệ nổi bật của cuộc CMCN 4.0 đem lại cơ hội lớn cho ngành Ngân hàng Việt Nam; cụ thể: (i) Tăng cường khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại để nâng cấp chất lượng, tính năng, tiện ích… của sản phẩm dịch vụ, qua đó, gia tăng lợi thế cạnh tranh, tiết giảm nhân lực thủ công, giảm chi phí phân phối sản phẩm và nâng cao lợi nhuận; (ii) Gia tăng cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế của các ngân hàng; (iii) Mở ra cơ hội cho các ngân hàng tiếp cận và phục vụ số lượng lớn khách hàng, đặc biệt là khách hàng tại vùng sâu, vùng xa; qua đó, góp phần đẩy mạnh triển khai định hướng của Chính phủ về phát triển tài chính toàn diện (financial inclusion).
Hình 1: Bốn cuộc CMCN trong lịch sử
Nguồn: Deloite (2014)
Không thể phủ nhận cơ hội cuộc CMCN 4.0 mang lại cho ngành Ngân hàng là vô cùng to lớn, tuy nhiên, đi kèm theo đó là thách thức không nhỏ mà ngành Ngân hàng cần phải vượt qua, cụ thể:
(i) Khoảng trống chính sách đối với các dịch vụ tài chính được số hóa đòi hỏi cần có sự chung tay phối hợp của các cơ quan quản lý trong việc xây dựng, hoàn thiện quy định pháp luật. Trong khi các định chế tài chính chịu sự điều chỉnh của nhiều quy định pháp luật nhằm đảm bảo an toàn hệ thống, thì công ty Fintech cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tài chính như cho vay ngang hàng (P2P Lending), huy động vốn cộng đồng (Crowdfunding)… chưa có quy định pháp luật điều chỉnh trực tiếp. Nếu không kịp thời hoàn thiện các quy định của pháp luật đối với các sản phẩm công nghệ tài chính mới, có thể tạo ra một “sân chơi không bình đẳng” giữa công ty Fintech và ngân hàng.
(ii) Thay đổi mô hình kinh doanh, sản phẩm dịch vụ, kênh phân phối sản phẩm và chuẩn bị nguồn lực tài chính lớn để thích ứng với xu hướng ứng dụng công nghệ cao vào sản phẩm, dịch vụ, số hóa các hoạt động ngân hàng. Trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 phát triển ngày càng đa dạng và phức tạp, khách hàng có xu hướng chuyển dần từ tương tác trực tiếp với ngân hàng sang tương tác qua thiết bị điện tử, các ứng dụng (applicants), nền tảng số (platforms) từ xa. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải có sự dịch chuyển trong mô hình kinh doanh, tạo ra sự nhất quán trong mô hình quản trị, kế hoạch hành động chuyển đổi sang ngân hàng số và phương thức triển khai trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng nguồn lực (tài chính, nhân lực…) và rủi ro tiềm tàng trong quá trình chuyển đổi.
(iii) Rủi ro về bảo mật thông tin, an ninh mạng và phòng chống tội phạm công nghệ cao trong lĩnh vực ngân hàng: Xu hướng tội phạm công nghệ đang chuyển dần từ tấn công cơ học sang khai thác các lỗ hổng về công nghệ và người dùng. Do đó, việc ứng dụng các thành tựu từ cuộc CMCN 4.0 tạo áp lực không nhỏ lên hạ tầng an ninh mạng của ngân hàng.
(iv) Năng lực và chất lượng nguồn nhân lực: Chất lượng nguồn nhân lực không chỉ về trình độ nghiệp vụ ngân hàng mà còn là kiến thức, kỹ năng về vận hành và làm chủ công nghệ tiên tiến, hiện đại. Vì vậy, ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ cán bộ làm chủ công nghệ mới. Thêm vào đó, áp lực trong việc giữ nguồn nhân lực chất lượng cao gắn bó lâu dài với tổ chức trước làn sóng dịch chuyển nguồn nhân lực tài chính ngân hàng chất lượng cao đang ngày một gia tăng.
(v) Cạnh tranh giữa các ngân hàng trong cuộc đua về công nghệ và sự xuất hiện của các công ty Fintech: Số lượng công ty Fintech tăng nhanh và sức ép cạnh tranh của công ty Fintech đối với hoạt động ngân hàng truyền thống cũng gia tăng. Điều này tạo ra áp lực vô hình và hữu hình lên hệ thống ngân hàng, đòi hỏi ngân hàng phải có chiến lược phát triển phù hợp. Trong bối cảnh đó, mối tương quan giữa công ty Fintech và ngân hàng trong thời gian tới đây có thể diễn ra theo ba (3) xu hướng chủ đạo: (1) Ngân hàng cạnh tranh với công ty Fintech; (2) Ngân hàng hợp tác với công ty Fintech; (3) Một số dịch vụ của ngân hàng bị thay thế bởi công ty Fintech.
(vi) Việt Nam chưa có cơ sở dữ liệu định danh toàn quốc (KYC). Hành lang pháp lý cho kinh tế số chưa đủ và đồng bộ, hạ tầng công nghệ thông tin còn tồn tại những bất cập nhất định, mức độ nhận thức, hiểu biết về dịch vụ tài chính, về ngân hàng số của người dân và doanh nghiệp còn hạn chế.
Như vậy, cuộc CMCN 4.0 tác động lên hệ thống tài chính ngân hàng một cách toàn diện, không chỉ ở cách thức thực hiện giao dịch, các kênh cung cấp, phân phối sản phẩm, dịch vụ mà trong cả cách thức quản trị ngân hàng, mối quan hệ tương tác với khách hàng và với đối thủ cạnh tranh. Do đó, để nâng cao khả năng cạnh tranh, nhiều ngân hàng ở Việt Nam đã và đang nghiên cứu và thực hiện chuyển dịch mô hình ngân hàng truyền thống phụ thuộc vào mạng lưới chi nhánh sang mô hình ngân hàng số.
Nhận thức sâu sắc về tác động của cuộc CMCN 4.0, Đảng và Nhà nước đã chủ động ban hành nhiều chủ trương, chính sách lớn mang tầm chiến lược đối với việc phát triển khoa học, công nghệ để tạo tiền đề nâng cao khả năng thích ứng và triển khai thành tựu cuộc CMCN 4.0 tại Việt Nam. Tại Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Đảng thể hiện rõ quan điểm và đưa ra định hướng phát triển chính sách khoa học và công nghệ. Nhằm nắm bắt và tận dụng các cơ hội của cuộc CMCN 4.0 để phát triển bứt phá, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0. Đây là nghị quyết toàn diện, tổng thể đầu tiên của Đảng về chủ trương, chính sách của Việt Nam tham gia cuộc CMCN 4.0; là cơ sở lý luận quan trọng để triển khai thực hiện cuộc CMCN 4.0 và chuyển đổi số tại Việt Nam.
Để triển khai, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển khoa học, công nghệ và chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0, Chính phủ cũng đã ban hành văn bản, quy định cụ thể như Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”; chỉ thị về “Tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”. Đối với ngành Ngân hàng, ngày 08/8/2018 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 986/QĐ-TTg về phê duyệt “Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo những mục tiêu ngành Ngân hàng cần đạt được, đặc biệt là phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng theo hướng dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến, phù hợp với chuẩn mực hoạt động theo thông lệ quốc tế. Chính phủ cũng đã giao nhiệm vụ cho NHNN trong việc thực hiện cơ chế thử nghiệm chính sách mới (dạng sandbox); cụ thể: (i) Nghiên cứu, xây dựng Đề án cơ chế quản lý thử nghiệm cho hoạt động Fintech trong hoạt động ngân hàng; (ii) Nghiên cứu cơ chế thí điểm quản lý hoạt động cho vay ngang hàng. Trên cơ sở đó, NHNN cũng đã ban hành Kế hoạch ứng dụng Công nghệ thông tin của các TCTD giai đoạn 2017 - 2020 với các mục tiêu, lộ trình và giải pháp cụ thể nhằm định hướng cho các TCTD trong việc đầu tư và hoàn thiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ ứng dụng công nghệ tiên tiến từ cuộc CMCN 4.0; Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0 đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025 cũng như Chương trình hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
Những chủ trương, chính sách lớn nêu trên khẳng định sự chủ động, nhạy bén trong nhận thức của Đảng, Chính phủ, NHNN về những cơ hội to lớn mà cuộc CMCN 4.0 mở ra cho sự phát triển kinh tế Việt Nam và ngành Tài chính - Ngân hàng Việt Nam. Để triển khai Nghị quyết của Đảng, nhiều kế hoạch, chương trình hành động được ban hành một cách chủ động trong thời gian gần đây của Chính phủ và NHNN đã mang lại những kết quả tích cực, từng bước làm thay đổi nhận thức của các cá nhân, doanh nghiệp nói chung và TCTD nói riêng về những lợi ích, cơ hội, cũng như những thách thức, rủi ro của cuộc CMCN 4.0.
Trước tiềm năng phát triển của việc ứng dụng công nghệ số, cùng với nhu cầu sử dụng các sản phẩm dịch vụ có yếu tố công nghệ ngày càng cao của khách hàng, đặc biệt là thế hệ trẻ ưa chuộng công nghệ, việc phát triển ngân hàng số là một xu thế tất yếu liên quan đến sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng trong môi trường cạnh tranh sâu sắc hiện nay. Trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng, chỉ đạo Chính phủ, NHNN, đồng thời bám sát Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0 đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025, Vietcombank đã xây dựng Chiến lược phát triển Vietcombank đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030; trong đó cụ thể hóa quan điểm và nhận thức về phát triển ngân hàng số trong xu thế cuộc CMCN 4.0. Vietcombank đặt mục tiêu trở thành ngân hàng đứng đầu về ngân hàng số, xác định phát triển ngân hàng số là nhiệm vụ then chốt trong chiến lược phát triển của Vietcombank trong giai đoạn phát triển mới. Hiện tại, Vietcombank đã triển khai một số đầu mục công việc sau:
Về sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số
Vietcombank tập trung vào việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, tra cứu số dư… trên các ứng dụng hoặc các dịch vụ mở tài khoản, gửi tiền gửi tiết kiệm trên kênh ngân hàng điện tử (Internet Banking). Các sản phẩm, dịch vụ số của Vietcombank đã mang đến nhiều tiện ích cho khách hàng: Tháng 3/2016, Vietcombank ra mắt không gian giao dịch công nghệ số Vietcombank Digital Lab. Vietcombank Digital Lab nằm trong tổng thể dự án xây dựng mô hình chi nhánh hiện đại (Smart Branch) theo chiến lược phát triển ngân hàng số của Vietcombank. Tháng 8/2018, Vietcombank phối hợp cùng VNPAY cho ra mắt VCBPAY - ứng dụng chuyển tiền nhanh, thanh toán tiện lợi dành cho nhóm khách hàng trẻ, năng động. Sản phẩm nằm trong hệ sinh thái ngân hàng trên điện thoại di động (Mobile Banking) của Vietcombank. (Đồ thị 1, 2)
Kết quả kinh doanh dịch vụ ngân hàng điện tử (DVNHĐT) tăng trưởng tốt qua các năm về quy mô khách hàng và quy mô giao dịch. Tốc độ tăng trưởng khách hàng cá nhân và khách hàng tổ chức giai đoạn 2015 - 2018 tương ứng đạt trung bình 39%/năm và 36%/năm. Xét về quy mô giao dịch, số lượng giao dịch của khách hàng cá nhân và khách hàng tổ chức tăng trung bình 86%/năm và 21%/năm; quy mô giá trị giao dịch DVNHĐT của khách hàng cá nhân và khách hàng tổ chức tăng trung bình 77%/năm và 18%/năm. DVNHĐT của Vietcombank chiếm tỷ trọng khoảng 49% số lượng giao dịch và 12% giá trị giao dịch toàn thị trường.
Về nguồn nhân lực phát triển ngân hàng số
Thời gian qua, Vietcombank tập trung đổi mới công tác quản trị nguồn nhân lực với nhiều chuyển biến tích cực, góp phần tạo ra thành công trong hoạt động kinh doanh cũng như trong công tác quản trị điều hành. Quy mô, năng suất và chất lượng lao động Vietcombank không ngừng tăng lên.
Về quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng số
Đặc thù hoạt động ngân hàng số dựa vào hệ thống công nghệ trực tuyến, tiềm ẩn rủi ro từ lỗi hệ thống, tội phạm công nghệ, nên thói quen người sử dụng, yếu tố an toàn và kiểm soát rủi ro luôn được Vietcombank đặt lên hàng đầu; cụ thể: (i) thường xuyên cập nhật, đánh giá rủi ro định kỳ về sản phẩm dịch vụ để chủ động xây dựng, cập nhật các quy định nội bộ, hệ thống kiểm soát rủi ro chặt chẽ; (ii) chuẩn hóa, tăng cường công tác quản trị rủi ro trong hợp tác với đối tác như xây dựng khung quản trị rủi ro đối tác kinh doanh, xây dựng quy trình giám sát xử lý sự cố dịch vụ hợp tác đối tác thứ ba.
Về cơ sở hạ tầng, hệ thống công nghệ
Vietcombank đã ban hành quy chế an toàn thông tin và triển khai các giải pháp xuyên suốt từ lớp mạng tới lớp ứng dụng, cùng các hệ thống giúp đảm bảo an ninh, an toàn và hoạt động liên tục cho các hệ thống CNTT; Chuẩn hóa hạ tầng CNTT theo chuẩn quốc tế và tối ưu hóa hiệu quả đầu tư; Cải tạo và nâng cấp trung tâm dữ liệu chính và trung tâm dữ liệu dự phòng; Trang bị và quản lý tài nguyên hạ tầng trên nền tảng ảo với hầu hết các hệ thống ứng dụng giúp tiết kiệm chi phí đầu tư và việc vận hành và bảo trì hệ thống đơn giản hơn; Hoàn thành triển khai trục tích hợp giúp tăng khả năng tích hợp và tự động hóa trong trao đổi thông tin giữa các hệ thống.
Về mô hình hoạt động
Từ tháng 9/2016, Vietcombank đã thành lập một bộ phận chuyên trách thực hiện vai trò đầu mối xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử, quản lý chính sách, quy định, sản phẩm, đối tác và quản lý hiệu quả kinh doanh dịch vụ ngân hàng điện tử chung của Vietcombank.
Vietcombank đã triển khai dịch vụ ngân hàng trực tuyến là hình thức sơ khai ban đầu của ngân hàng số. Các dịch vụ trực tuyến của Vietcombank hiện cung cấp các dịch vụ cơ bản như tra cứu số dư, chuyển tiền, gửi tiết kiệm online trong khi cùng với các dịch vụ trực tuyến như vậy có thể cung cấp được các dịch vụ khác như cho vay trực tuyến, bảo lãnh vay trực tuyến, mở thẻ trực tuyến.
Về đối tác hợp tác trong việc phát triển ngân hàng số
Cuộc CMCN 4.0 ảnh hưởng sâu rộng tới mọi mặt kinh tế xã hội, tác động tới mọi ngành nghề, mọi quốc gia, nhiều ngân hàng trên thế giới đều nhìn nhận công ty Fintech là cánh tay nối dài của ngân hàng, là đối tác giúp ngân hàng có thể đưa ra giải pháp tiên tiến hơn cho sản phẩm và dịch vụ của mình. Trong bối cảnh đó, Vietcombank liên tục mở rộng hợp tác với các đơn vị cung ứng dịch vụ, các công ty Fintech, trung gian thanh toán (Vnpay, Momo…) trên nhiều lĩnh vực như y tế, hành chính công, giao thông, điện, nước, học phí… theo đúng định hướng của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt.
Những bước đi trên đây cùng những dự án trong thời gian tới sẽ góp phần hiện thực hóa mục tiêu “Ngân hàng đứng đầu về chuyển đổi ngân hàng số”, Chiến lược phát triển Vietcombank đến năm 2025 và Tầm nhìn đến năm 2030: phát triển trở thành tập đoàn tài chính đa năng, một trong 50 ngân hàng lớn nhất khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, một trong 200 tập đoàn tài chính ngân hàng lớn nhất thế giới, một trong 700 doanh nghiệp niêm yết lớn nhất toàn cầu và đóng góp lớn vào sự thịnh vượng của Việt Nam.
TS. Nghiêm Xuân Thành
Nguồn: TCNH số 3/2020