Từ năm 2007, hành lang pháp lý về phát triển ngân hàng số bắt đầu được hình thành khi Chính phủ ban hành Nghị định 35/2007/NĐ-CP về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng. Đến năm 2016, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu đứng trước những cơ hội và cả những thách thức từ cuộc CMCN 4.0, tiến trình phát triển ngân hàng số của các ngân hàng thương mại (NHTM) chính thức diễn ra mạnh mẽ. Các NHTM xác định chuyển đổi số là trung tâm chiến lược kinh doanh, đầu tư mạnh mẽ cho công nghệ, thay đổi mô hình tổ chức phục vụ phát triển ngân hàng số và hợp tác với các công ty fintech tăng nhanh. Các nỗ lực thực hiện ngân hàng số của các NHTM hiện nay đã bước đầu mang lại những kết quả tích cực.
Phát triển ngân hàng số giúp NHTM tăng hiệu quả hoạt động và góp phần tạo ra lợi thế cạnh tranh mới
Các dịch vụ cung cấp đến khách hàng đã được đa dạng hóa hơn rất nhiều, cùng với đó, phát triển ngân hàng số giúp NHTM tăng hiệu quả hoạt động và góp phần tạo ra lợi thế cạnh tranh mới. Tuy nhiên, các NHTM vẫn phải đối mặt với những khó khăn về nhân sự, về vốn đầu tư… Bài viết sẽ tập trung nhìn nhận, đánh giá quá trình phát triển ngân hàng số của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn vừa qua và đưa ra những gợi ý cho các giai đoạn sau.
1. Thực trạng phát triển ngân hàng số tại các NHTM Việt Nam
Phát triển ngân hàng số là tích hợp công nghệ vào mọi quy trình nghiệp vụ theo hướng tự động vận hành, cung ứng sản phẩm dịch vụ trên nền tảng số, khai thác các dữ liệu thu thập được trong quá trình giao tiếp với khách hàng. Phát triển ngân hàng số cho phép các ngân hàng cung cấp các sản phẩm dịch vụ đa dạng hơn rất nhiều so với trước đây nhờ vào việc thực hiện kết nối các lớp dịch vụ khác nhau vào trong hệ thống ngân hàng thông qua nền tảng số. Mọi nhu cầu giao dịch về tiền của khách hàng đều có thể đáp ứng qua hệ thống ngân hàng, không chỉ đơn giản là các dịch vụ cơ bản như huy động vốn hay cho vay. Đồng thời, cùng với phục vụ được số lượng ngày càng lớn các nhu cầu của khách hàng, nền tảng dữ liệu của khách hàng cũng có thể được khai thác hiệu quả hơn thông qua các công nghệ mới. Từ đó, các NHTM có thể nắm bắt được rõ hơn xu hướng hành vi của khách hàng để điều chỉnh sản phẩm cho phù hợp hơn, nâng cao được khả năng phục vụ khách hàng. Hơn nữa, thông qua tự động hóa quy trình, phát triển ngân hàng số giúp các NHTM giảm chi phí vận hành, chi phí duy trì quan hệ khách hàng cũng như những khoản đầu tư khác về vật chất, con người… đi liền với tăng tốc độ xử lý. Hiệu quả hoạt động của ngân hàng nhìn chung sẽ được cải thiện. Đặc biệt, sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) giúp cải thiện hiệu quả hoạt động ngân hàng bán lẻ, tăng cường trải nghiệm khách hàng, giúp tăng lòng trung thành của khách hàng và giảm áp lực cạnh tranh bằng giá giữa các NHTM. Chuyển đổi phát triển ngân hàng số của ngân hàng mang lại lợi ích lớn nhất đến khách hàng. Bởi vì các dịch vụ sẽ có chất lượng tốt hơn, chi phí rẻ hơn và danh mục sản phẩm được đa dạng phù hợp hơn với nhu cầu của từng lớp nhỏ khách hàng. Quá trình phát triển ngân hàng số các NHTM tại Việt Nam được nhìn thấy rất rõ nét. Các NHTM triển khai nhiều công việc trong quá trình phát triển ngân hàng số hoạt động. Cụ thể:
Thứ nhất, ngân hàng số trở thành một phần quan trọng trong chiến lược kinh doanh của nhiều ngân hàng. Ngành Ngân hàng xác định phát triển ngân hàng số là vấn đề chiến lược, không chỉ là một dự án công nghệ. Bởi vì, mô hình hoạt động của ngân hàng sẽ dần thay đổi khi sử dụng các kết nối, chia sẻ dữ liệu mở qua giao diện chương trình ứng dụng (open API), công nghệ chuỗi khối (Blockchain), Ngân hàng như một nền tảng (BaaP)… Các ngân hàng không chỉ là đơn vị cung cấp dịch vụ mà sẽ dần trở thành một mắt xích trong quan hệ tài chính của mọi đối tượng trong xã hội. Vì vậy, các NHTM dần thay đổi tư duy, lấy khách hàng là trung tâm, chú trọng xây dựng cơ sở dữ liệu lớn cùng với việc thay đổi văn hóa kinh doanh, phương thức quản trị, đầu tư công nghệ, tích hợp kênh phân phối... Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), 94% ngân hàng Việt Nam đang trong bước đầu triển khai hoặc xây dựng chiến lược chuyển đổi số. Trong số 94% ngân hàng nói trên, có 59% đã bước đầu triển khai ngân hàng số trong thực tế, 35% đang nghiên cứu, xây dựng chiến lược; còn lại 6% hiện chưa tính được việc xây dựng chiến lược.
Đặc biệt, các NHTM nhỏ đã mạnh dạn chuyển hướng lấy ngân hàng số làm trọng tâm hoạt động. Tiêu biểu nhất là trường hợp của ngân hàng OCB, TPBank... Ngân hàng OCB đặt ra mục tiêu đưa chiến lược phát triển ngân hàng số vào hoạt động kinh doanh cốt lõi ngân hàng, từ đó, hoạch định chiến lược phát triển một cách rõ ràng với mọi hoạt động. Ngân hàng thực hiện xây dựng Ngân hàng hợp kênh OCB OMNI - theo đó, các kênh giao dịch số được kết nối, đồng nhất với nhau, tạo được trải nghiệm xuyên suốt cho khách hàng khi có sự chuyển dịch giữa các kênh. Trong đó, tất cả các dịch vụ của một ngân hàng đều được tích hợp trên một nền tảng số duy nhất, giúp khách hàng sử dụng dịch vụ, sản phẩm của OCB mà không cần đến quầy. Thậm chí, khách hàng không cần phải thực hiện từng giao dịch riêng lẻ, mất nhiều thời gian xử lý, khách hàng có thể thực hiện cùng lúc nhiều giao dịch chuyển tiền đến tài khoản/thẻ khác nhau chỉ với một lần xác thực OTP thông qua tính năng “Giỏ giao dịch”… Đồng thời, ngân hàng này cũng cho ra mắt Trang thương mại điện tử OCB GO là kênh giới thiệu và phát triển các sản phẩm, dịch vụ như mở tài khoản, thẻ tín dụng, gửi tiết kiệm, tư vấn tài chính thông minh… hoàn toàn trực tuyến.
Thứ hai, các NHTM thay đổi mô hình tổ chức phục vụ phát triển ngân hàng số. Khi xác định ngân hàng số là chiến lược kinh doanh, các NHTM dần thay đổi mô hình hoạt động để đảm bảo vận hành lâu dài. Tùy thuộc vào quy mô và mạng lưới hoạt động, quá trình chuyển đổi mô hình của các NHTM có sự khác biệt đáng kể.
Các NHTMCP nhỏ có xu hướng thiết lập mảng kinh doanh mới hoặc thành lập ngân hàng số thuần túy (pure digital banks). Theo đó, ngân hàng số là một mảng kinh doanh riêng, độc lập với hoạt động kinh doanh cũ và hướng đến việc tìm kiếm đối tượng khách hàng mới. Ví dụ điển hình như VPBank với mô hình Timo. Đây là mô hình hoàn toàn độc lập được triển khai bởi đối tác chiến lược của VPBank. Là mô hình ngân hàng pure digital banks nên Timo có thể kiểm soát chi phí vận hành và đưa đến giảm chi phí cho khách hàng thông qua miễn phí dịch vụ. Hay như mô hình Livebank của TPBank. Được ra mắt từ năm 2017, đến nay, TPBank đã mở được 150 điểm ngân hàng tự động LiveBank trên toàn quốc, 2 triệu lượt khách hàng, tổng giao dịch hàng nghìn tỷ đồng sau 3 năm. Sản phẩm ngân hàng tự động 24/7 có thể thực hiện gần như đầy đủ các giao dịch như một chi nhánh truyền thống. Đại diện ngân hàng cho hay, đến nay, trên 2/3 giao dịch của ngân hàng thực hiện tại LiveBank, giúp tiết giảm một lượng lớn chi phí nhân sự, quản lý và tối đa thời gian, tiền bạc cho khách hàng. Khoảng 60% giao dịch của LiveBank diễn ra ngoài giờ hành chính, giúp đáp ứng tốt hơn nhu cầu của bộ phận khách hàng mà mô hình ngân hàng truyền thống không thể phục vụ.
Các ngân hàng có quy mô lớn, chủ yếu là các NHTM nhà nước, tập trung chuyển đổi số đối với hoạt động kinh doanh hiện tại. Trong đó, hầu hết các ngân hàng đã thành lập một đơn vị chuyên trách phát triển các dịch vụ số để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Một số ngân hàng đã có thay đổi lớn về mô hình tổ chức để phát triển ngân hàng số như BIDV, MB, LienvietPostbank, ACB… Tại BIDV, để triển khai đúng hướng chiến lược về ngân hàng số, BIDV đã thành lập Trung tâm ngân hàng số giúp BIDV xây dựng hệ sinh thái tài chính tiêu dùng cho khách hàng, MB, LienvietPostbank hình thành khối ngân hàng số, ACB thành lập team công nghệ dưới sự điều hành trực tiếp của CEO hay Hội đồng Quản trị…
Thứ ba, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của các NHTM được nâng cấp nhanh chóng trên diện rộng. Các NHTM thực hiện thay thế hệ thống công nghệ lõi cũng như tích cực ứng dụng các công nghệ mới trong xử lý giao dịch, lưu trữ thông tin... Đơn cử như Vietinbank đã thay thế thành công hệ thống CoreBanking vào tháng 2/2017 (Core SunShine), vận hành kho dữ liệu doanh nghiệp mới (EDW) từ tháng 4/2017... Hay như VPBank đã xây dựng ngân hàng số YOLO với hệ thống Core banking riêng, tách biệt với hệ thống hiện tại, ứng dụng công nghệ phân tích dữ liệu của IBM để đồng bộ hóa dữ liệu khách hàng, hỗ trợ phân tích hành vi khách hàng. Các NHTM nhỏ cũng rất quan tâm đến việc đầu tư cho công nghệ và quyết tâm cao độ để thực hiện hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin của mình. Tại Vietbank, ngân hàng này đã thay thế mới toàn bộ hệ thống phần mềm ngân hàng lõi Core Banking của Finastra, đầu tư mới toàn bộ hệ thống lõi cho thẻ của Cardzone, chuẩn bị thay thế Internet banking bằng hệ thống DC (digital channel) mới. Đồng thời, đẩy mạnh hợp tác với các đối tác lớn trong nước và quốc tế như Finastra, Cisco... nhằm mang đến những ứng dụng tích hợp các chức năng, tiện ích đa dạng cho khách hàng. Hay rất nhiều ngân hàng đã ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong hoạt động như TPBank ứng dụng trợ lý ảo T’Aio có thể tương tác với hơn 1,5 triệu khách hàng cùng một thời điểm trên Facebook Messenger, BIDV thí điểm ứng dụng trí tuệ nhân tạo Watson phân tích dữ liệu khách hàng... Đồng thời, các NHTM đã có sự liên kết với các nền tảng thanh toán chung để tạo được hiệu quả hoạt động của việc cộng hưởng với các bên. Điển hình như NAPAS và 3 ngân hàng gồm VietinBank - VIB - TPBank đã thử nghiệm thành công mô hình chuyển tiền trên blockchain, đồng thời cũng sử dụng chung điện toán đám mây.
Thứ tư, mô hình hợp tác dưới hình thức đối tác giữa ngân hàng và doanh nghiệp công nghệ trong lĩnh vực tài chính (fintech) hay các công ty công nghệ lớn (Google, Facebook… - Bigtech) đang phát triển nhanh chóng. Sự hợp tác này mang lại lợi ích cho khách hàng cũng như ngân hàng. Khách hàng có thể gia tăng trải nghiệm cũng như tiếp cận được đa dạng hóa dịch vụ với số lần truy cập ít hơn. Ngân hàng hợp tác với các doanh nghiệp này có thể giúp tăng thêm số lượng, mức độ hài lòng của khách hàng, chi phí đầu tư... Các đại diện tiêu biểu có thể kể đến như Vietinbank hợp tác với Opportunity Network (ON) trong cung cấp nền tảng số cho doanh nghiệp; Vietcombank và M_Service hợp tác trong thanh toán chuyển tiền; VPBank hợp tác với Moca trong cung cấp dịch vụ thanh toán số; MB Bank kết hợp với Starup Fintech cung ứng dịch vụ ngân hàng trong ứng dụng Messenger của Facebook, VIB kết hợp với công ty Fintech Weezi cung cấp sản phẩm MyVIB Keyboard - một ứng dụng mới giúp chuyển tiền qua mạng xã hội; Techcombank hợp tác với Fastcash đưa ra tính năng F@st mobile giúp chuyển tiền qua Facebook và Google +...
Những nét thay đổi lớn trong quá trình phát triển ngân hàng số các NHTM Việt Nam vẫn còn ở phía trước. Song đến nay, các nỗ lực thực hiện phát triển ngân hàng số của các NHTM hiện nay đã bước đầu mang lại những kết quả tích cực.
2. Kết quả phát triển ngân hàng số các NHTM đến nay
Một là, đa dạng hóa dịch vụ cung cấp đến khách hàng.
So với dịch vụ Ebanking (chỉ tập trung vào một số tính năng chính như chuyển tiền, thanh toán và tra cứu số dư tài khoản), ngân hàng số là một bước phát triển mạnh vì có thể thực hiện hầu hết các giao dịch ngân hàng bằng hình thức trực tuyến thông qua Internet. Triển khai ngân hàng số giúp các NHTM nhanh chóng đa dạng hóa được các sản phẩm dịch vụ cung cấp đến khách hàng. Ngân hàng số đang dần được hình thành dưới dạng một hệ sinh thái cho phép người tiêu dùng có thể trải nghiệm, tham gia và thanh toán “mọi thứ” trên nền tảng ngân hàng số. Ngân hàng đã đẩy mạnh các dịch vụ cho vay, hỗ trợ các dịch vụ phát sinh kèm sau cho vay để phục vụ được khách hàng nhiều hơn. Hiện nay, các khách hàng đã có thể thực hiện vay vốn trên nền tảng số của ngân hàng, trả nợ, phát hành thẻ, chuyển tiền, thanh toán… Đồng thời, ngân hàng kết hợp với các trung gian thanh toán để đáp ứng tối đa các nhu cầu thanh toán trong chi tiêu của khách hàng tại các kênh cung cấp dịch vụ của ngân hàng hoặc các kênh bán hàng của đối tác.
Dự án ngân hàng số của các NHTM Việt Nam hiện nay hầu hết đều đã kết hợp với các nhà cung cấp ở các ngành hàng và dịch vụ khác nhau từ bảo hiểm, sức khỏe, vận chuyển… để cung cấp được dịch vụ phong phú hơn cho khách hàng. Công nghệ bên trong ngân hàng số cho phép kết nối với một hệ sinh thái đa dạng và rộng lớn các dịch vụ và sản phẩm được cung cấp bởi các doanh nghiệp lớn/dịch vụ công như viễn thông, điện, nước, giáo dục… hay thậm chí là các nhà cung cấp nhỏ như đặt taxi, nghe nhạc đến đặt vé xem phim, đặt đồ ăn, thức uống... Nhờ đó, khách hàng có thể sử dụng mọi nhu cầu mua, bán trên nền tảng số, bên cạnh việc thực hiện các bước thanh toán tại các điểm mua hàng.
Hai là, tăng hiệu quả hoạt động của các NHTM
Đi cùng với việc thực hiện phát triển ngân hàng số, các NHTM bước đầu tiết kiệm chi phí hoạt động so với phương thức truyền thống. Các giấy tờ, thủ tục phục vụ giao dịch được lược bớt, giúp giảm thời gian giao dịch cho khách hàng cũng như nhân lực cho ngân hàng. Mức độ tiết kiệm của các ngân hàng khác nhau, phụ thuộc vào mức độ phát triển ngân hàng số của bản thân ngân hàng. TPBank triển khai digital form cho khách hàng tự nhập thông tin và khai form mẫu trên website. Vì vậy, khi khách hàng đến ngân hàng, các bước thu thập thông tin như trước đây đã được rút ngắn đi giúp cho thời gian xử lý giao dịch ít hơn, tăng năng suất lao động cho giao dịch viên… Hay tại BIDV, việc thay thế nhân viên bằng robot đã giúp BIDV tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí tiền lương và đẩy mạnh tự động hóa quy trình nghiệp vụ. Tổng thời gian xử lý công việc của Robot chỉ bằng 20% thời gian xử lý của con người, do vậy tiết giảm được 80% thời gian thao tác khi sử dụng Robot, đem lại lợi ích giúp BIDV tiết giảm được 2,7 tỷ đồng chi phí lương nhân viên dành cho nghiệp vụ này hàng năm. Trong tương lai gần, phát triển các kho dữ liệu lớn giúp tạo thuận lợi trong thu thập, phân tích và xử lý dữ liệu lớn sẽ tạo ra những tri thức mới, hỗ trợ việc đưa ra quyết định nhanh chóng và hiệu quả.
Phát triển ngân hàng số còn giúp tuân thủ tốt hơn các quy định, luật lệ mới. Với ngân hàng số, dữ liệu khách hàng được lưu trữ, quản lý tập trung, đồng bộ, từ đó, giúp cho việc tuân thủ các quy định quản trị của cơ quan chức năng dễ dàng hơn, cũng như việc xây dựng các mô hình quản trị rủi ro riêng của ngân hàng cũng thuận lợi hơn. Ngân hàng có thể xác định mức rủi ro của khách hàng để có thể có phương án ứng phó phù hợp, tuân thủ các quy định của EU về ngân hàng mở (PSD2), bảo vệ dữ liệu khách hàng (GDPR)… trở nên dễ dàng hơn nhiều.
Ba là, góp phần tạo ra lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng
Phát triển ngân hàng số NHTM tạo ra được quy trình thuận tiện, thủ tục đơn giản và tốc độ phục vụ nhanh giúp ngân hàng có khả năng cung cấp dịch vụ cho khách hàng với chất lượng ngày một cao, đi kèm với chi phí thấp hơn. Đồng thời, thông qua cơ sở dữ liệu lưu trữ điện tử, các ngân hàng có thể phân tích, đánh giá được mô típ khách hàng, từ đó, đề ra các chiến lược kinh doanh phù hợp. Đơn cử như VietinBank với Dự án Kho dữ liệu doanh nghiệp (EDW) góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý cũng như giám sát và quản trị rủi ro theo tiêu chuẩn quốc tế; VPBank ứng dụng công nghệ phân tích dữ liệu của IBM để đồng bộ hóa dữ liệu khách hàng, hỗ trợ phân tích hành vi khách hàng nhanh chóng.
Đồng thời, gia tăng phát triển phát triển ngân hàng số cho phép các NHTM tiếp cận với khách hàng mọi nơi, mọi lúc. Nhờ đó, nguồn vốn tạm trữ phục vụ mục tiêu thanh toán của khách hàng vốn ở dạng tiền mặt có thể chuyển dần sang dưới dạng tiền trong tài khoản của ngân hàng. Từ đó, ngân hàng có thể gia tăng đáng kể nguồn vốn không kỳ hạn với chi phí thấp. Nguồn vốn này có tính ổn định cao nếu ngân hàng thu hút được lượng khách hàng đủ lớn. Đơn cử như trường hợp của Techcombank, từ tháng 9/2016, khi bắt đầu chương trình Miễn phí hoàn toàn giao dịch chuyển khoản điện tử (E-Banking 0 đồng), đến tháng 9/2019, số lượng giao dịch của khách hàng cá nhân đã tăng lên gần 30 lần... Từ đó, giúp giảm chi phí vốn trong bối cảnh chi phí này ở các ngân hàng khác đều đang có xu hướng tăng.
Mặc dù phát triển ngân hàng số trong ngân hàng là xu hướng tất yếu và đã bước đầu mang lại lợi ích cho hệ thống ngân hàng, nhưng toàn bộ ngành Ngân hàng vẫn đang trong quá trình chuyển mình. Trong đó, các NHTM cũng gặp những khó khăn nhất định trong việc phát triển phát triển ngân hàng số hoạt động.
3. Những khó khăn trong phát triển ngân hàng số
Một là, những hạn chế khách quan của môi trường pháp lý
Mặc dù, phát triển ngân hàng số ngân hàng được sự khuyến khích và ủng hộ của cơ quan quản lý, tuy nhiên, trên thực tế, những chính sách, quy định pháp luật chưa đầy đủ và có phần thiếu nhất quán. Phát triển ngân hàng số của các NHTM diễn ra rất nhanh, cùng với việc xuất hiện ngày càng nhiều các dịch vụ mới yêu cầu việc thay đổi nhanh chóng hệ thống pháp lý để quản lý cũng như yêu cầu cơ sở dữ liệu công phải đầy đủ. Những quy định về xác thực khách hàng, đảm bảo an toàn bảo mật thông tin hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu hoạt động của ngành Ngân hàng. Hiện nay, các công nghệ mới cho phép xác thực điện tử (eKYC), điện toán đám mây, blockchain… chưa có các quy định quản lý phát triển, do đó, việc ứng dụng của các NHTM mang tính tự phát, cũng như việc xảy ra những rủi ro trong quá trình vận hành cũng chưa được kiểm soát một cách hiệu quả.
Trong quá trình phát triển ngân hàng số, các NHTM không có một mô hình cố định để theo đuổi, việc ứng dụng và phát triển số hóa cũng như xây dựng những dịch vụ mới sẽ tùy thuộc vào quyết định điều hành của từng ngân hàng. Trong nhiều trường hợp, các NHTM sẽ phải thực hiện thử nghiệm các dịch vụ mới. Tuy nhiên, do tính chất của hoạt động ngân hàng có thể ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế - xã hội nên khi các thử nghiệm mới này xảy ra rủi ro có thể để lại hậu quả nghiêm trọng. Do đó, trong bối cảnh các quy định chưa phát triển theo kịp sự phát triển của hệ thống thì sẽ phần nào hạn chế các NHTM áp dụng các thử nghiệm mới và có thể làm chậm tốc độ phát triển ngân hàng số trong lĩnh vực ngân hàng. Đơn cử như quy định về quản lý đối với hoạt động cho vay ngang hàng (P2Plending) chưa rõ ràng, hoặc các quy định về phát triển các sản phẩm ví điện tử…
Hai là, khó khăn trong tuyển dụng nhân sự về công nghệ
Trong quá trình chuyển đổi số, nhu cầu về nhân sự của NHTM thay đổi lớn so với trước đây. Khác với trước đây, nhu cầu sử dụng nhân sự am hiểu về tài chính ngân hàng và công nghệ gia tăng đột biến. Các NHTM thực hiện đầu tư mạnh vào công nghệ cũng đòi hỏi phải có đội ngũ nhân lực đủ trình độ để lĩnh hội, vận hành thậm chí là phát triển được hệ thống công nghệ phù hợp với nhu cầu của ngân hàng. Do đó, các ngân hàng không những mong muốn thu hút được những nhân lực tốt nhất cho quá trình chuyển đổi số mà còn cần phải thực hiện giữ chân được những nhân lực có sự am hiểu về hệ thống công nghệ của ngân hàng để có thể cải tiến, phát triển được trong dài hạn. Tuy nhiên, hiện nay, thường những nhân lực công nghệ thì chưa am hiểu về ngân hàng và ngược lại. Hơn nữa, theo nghiên cứu của Mc Kinsey, các nhân tài trong lĩnh vực công nghệ (như phát triển phần mềm, bảo mật, AI…) ưa thích lựa chọn làm việc cho các công ty công nghệ, thương mại điện tử, start up hơn vì mang lại cho họ nhiều cơ hội phát triển và môi trường làm việc cởi mở hơn. Do đó, tuyển dụng trên thực tế tương đối khó khăn.
Ba là, chi phí đầu tư cho công nghệ gia tăng nhanh
Mặc dù công nghệ có thể mang lại hiệu quả cao cho hoạt động trong dài hạn của ngân hàng, nhưng trong giai đoạn đầu, chuyển đổi công nghệ thường đòi hỏi mức đầu tư lớn. Hầu hết các nhà băng đều đang ưu tiên chi lớn cho công nghệ và dự kiến, sẽ tiếp tục gia tăng trong thời gian tới để có thể cạnh tranh với đối thủ trong và ngoài nước. Thông tin từ Techcombank cho biết, đã đầu tư 300 triệu đô la Mỹ cho hạ tầng công nghệ thông tin (tương ứng với 7,5% tổng vốn của ngân hàng) và con số này chắc chắn chưa dừng lại. Hay ACB đầu tư mỗi năm 300 - 350 tỉ đồng để chuyển đổi ngân hàng bán lẻ truyền thống thành ngân hàng số, mặc dù ngân hàng này chưa phải là nhóm thực hiện chuyển đổi nhiều nhất. Theo thống kê trên thế giới, tỷ lệ chi đầu tư công nghệ/tổng ngân sách của ngành Ngân hàng đang ở mức cao (8,7%) trong so sánh với các ngành khác nhưng sẽ còn tiếp tục tăng lên trong thời gian tới. Do đó, chi phí đầu tư cho công nghệ trong tương lai của ngành Ngân hàng nhiều khả năng tiếp tục tăng cao và đòi hỏi các NHTM phải luôn tìm phương án nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
4. Một số khuyến nghị
Thứ nhất, hoàn thiện hành lang pháp lý cho chính hoạt động của các ngân hàng tập trung vào:
(i) Hình thành các quy định để quản lý được những thay đổi về công nghệ trong ngành Ngân hàng như xác thực điện tử đối với khách hàng (e-KYC), ứng dụng điện toán đám mây, blockchain trong hoạt động ngân hàng…; (ii) Thay đổi cơ chế quản lý theo hướng cho phép thực hiện các môi trường pháp lý dạng thí điểm (sandbox) đối với các sản phẩm tài chính mới như cho vay ngang hàng, huy động vốn cộng đồng… nhằm tận dụng tốt hơn thành quả công nghệ, song vẫn kiểm soát được rủi ro và tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của người dân và doanh nghiệp; (iii) Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia - điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế số nói chung và tài chính số nói riêng.
Thứ hai, phát triển đội ngũ nhân lực cao về công nghệ ngân hàng. Lao động kỹ thuật cao về công nghệ cũng như am hiểu về ngân hàng trong tình trạng khan hiếm hiện nay đòi hỏi các NHTM cần đảm bảo chế độ đãi ngộ tốt, cũng như thực hiện thay đổi mô thức đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; có chính sách bố trí, sắp xếp nhân lực hợp lý khi thực hiện ngân hàng số; tạo lập môi trường đổi mới và sáng tạo. Đồng thời, các NHTM cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn với các cơ sở đào tạo về ngân hàng để giúp định hướng cho nguồn nhân lực trẻ về nhu cầu của đơn vị thực tế. Từ đó, có thể có sự thay đổi trong cách thức đào tạo cho phù hợp với nhu cầu thực tế.
Thứ ba, các NHTM cần có kế hoạch chuẩn bị nguồn vốn cũng như lựa chọn phương án đầu tư phát triển ngân hàng số phù hợp. Yêu cầu vốn đầu tư cho công nghệ ngân hàng tăng cao và sẽ tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí của ngân hàng trong thời gian tới. Song, định hướng ngân hàng số cần cân nhắc kỹ lưỡng và gắn liền với định hướng phát triển của ngân hàng, những chiến lược dài hạn cũng như đối tượng khách hàng mục tiêu của ngân hàng. Với mỗi tập khách hàng mục tiêu khác nhau, nhu cầu của khách hàng sẽ khác nhau, do đó, việc thực hiện đầu tư và phát triển công nghệ cũng cần có sự chọn lọc để mang lại trải nghiệm tốt nhất cho khách hàng. Các NHTM cần tránh đầu tư dàn trải theo đuổi nhiều mục tiêu, lãng phí mà không tạo ra được hiệu quả khác biệt.
ThS. Lại Thị Thanh Loan
TCNH Số 24/2019