Nền tảng để tăng trưởng
30/05/2022 09:03 1.631 lượt xem



Sản xuất các mặt hàng xuất khẩu tại Công ty cổ phần Sản xuất hàng thể thao MXP, tỉnh Thái Bình. (Ảnh THU HÀ)


Việt Nam đang nằm trong số các quốc gia có độ phủ vắc-xin phòng Covid-19 cao nhất thế giới và đang triển khai mạnh mẽ chiến lược thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh. Đây được coi là những nền tảng quan trọng để kinh tế-xã hội phục hồi nhanh.

Năm 2022, bên cạnh những tác động tiêu cực của kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam còn phải đối mặt với bốn rủi ro, thách thức từ nội tại như áp lực giá cả, lạm phát đang gia tăng; hoạt động bán lẻ và dịch vụ phục hồi, song sức cầu vẫn còn yếu; giải ngân đầu tư công còn chậm, chưa đạt như kỳ vọng; rủi ro nợ xấu tiềm ẩn gia tăng.

Các chuyên gia kinh tế mới đây đã dự báo, trong năm 2022, các hoạt động kinh tế-xã hội sẽ phục hồi mạnh hơn, dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2022, có thể đạt trung bình từ 5,5% đến 6%. Đáng lưu ý, các chuyên gia tài chính quốc tế cho rằng, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội 2022-2023 có quy mô ước tính khoảng 347 nghìn tỷ đồng, tương đương khoảng 15,3 tỷ USD (4,13% GDP năm 2021), để đáp ứng nhu cầu tài chính cho Chương trình này, nợ công dự báo sẽ tăng cao hơn trong năm 2022-2023; có thể ở mức từ 45% đến 46% GDP năm 2022 (cao hơn từ 0,8 đến 1,8 điểm % so với năm 2021) và từ 47% đến 48% GDP năm 2023, nhưng vẫn trong ngưỡng an toàn khi cách xa ngưỡng 60% GDP.

Theo chuyên gia kinh tế Cấn Văn Lực, sở dĩ nợ công có được nền tảng an toàn như vậy là nhờ một số yếu tố như tăng tỷ trọng vay trong nước với lãi suất khá thấp, việc sử dụng vốn vay đều có mục đích rõ ràng và khả năng hấp thụ đã được chú trọng. Về nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ, cuối năm 2021, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ ước tính khoảng 23% tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN), thấp hơn ngưỡng giới hạn 25%.

Để thực hiện hiệu quả chương trình phục hồi kinh tế năm 2022-2023, một trong những giải pháp huy động nguồn lực chủ yếu là phát hành trái phiếu chính phủ trong nước sẽ khiến nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ có thể tăng lên mức từ 24% đến 25% tổng thu NSNN trong hai năm này. Sang năm 2024 và 2025, Chính phủ sẽ điều tiết các nghĩa vụ nợ trực tiếp dần về quỹ đạo (khoảng từ 22% đến 23% tổng thu NSNN). Như vậy, áp lực trả nợ cả giai đoạn 2021-2025 sẽ không quá lớn.

Đi sâu phân tích thị trường tài chính (gồm thị trường ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm...), các chuyên gia ghi nhận đóng góp trụ cột của thị trường bảo hiểm đối với sự ổn định của thị trường tài chính Việt Nam. Năm 2022, Chính phủ bắt đầu thực hiện Chiến lược tài chính đến năm 2030, với mục tiêu là doanh thu ngành bảo hiểm tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021-2025 là 15%/năm; đến năm 2025, quy mô doanh thu phí bảo hiểm tương đương từ 3% đến 3,3% GDP; tăng trưởng bình quân giai đoạn 2026-2030 là 10%/năm; đến năm 2030, quy mô đạt khoảng từ 3,3% đến 3,5% GDP.

Về thị trường ngân hàng, với định hướng hỗ trợ phục hồi tăng trưởng trong giai đoạn 2022-2023, dự báo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ duy trì chính sách tiền tệ linh hoạt, phù hợp, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách khác nhằm kiểm soát lạm phát, bảo đảm nguồn cung tiền và tăng trưởng tín dụng phù hợp trong năm 2022.

Theo đó, chính sách tiền tệ sẽ phối hợp chính sách tài khóa nhằm thực hiện thành công chương trình hỗ trợ lãi suất trị giá 40 nghìn tỷ đồng trong hai năm (2022-2023) và chỉ đạo tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí, phấn đấu giảm lãi suất cho vay từ 0,5% đến 1%/năm trong hai năm. Trong khi đó, lãi suất điều hành dự báo vẫn được giữ nguyên trong năm 2022 do dư địa giảm không còn nhiều trong khi áp lực lạm phát tăng mạnh.

Đối với thị trường chứng khoán, các chuyên gia khẳng định: dư địa phát triển của thị trường cổ phiếu còn lớn khi Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thực hiện nghiêm túc hơn yêu cầu niêm yết đối với các doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Thị trường vẫn tiếp tục thu hút dòng vốn của các nhà đầu tư trong nước khi thanh khoản được duy trì ở mức cao, mặt bằng lãi suất có tăng nhẹ nhưng vẫn ở mức thấp, tiếp tục là động lực thu hút các nhà đầu tư trong nước trong khi áp lực rút vốn của khối ngoại tăng không đáng kể do tiềm năng, giá cổ phiếu của thị trường chứng khoán Việt Nam còn hấp dẫn.

Tuy nhiên, cũng có những yếu tố rủi ro đến từ bên ngoài có thể ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường cổ phiếu; nhất là tình hình giá cả, lạm phát toàn cầu gia tăng, nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới đang dần thắt chặt tài khóa, tiền tệ, tăng lãi suất nhằm kiểm soát lạm phát, điều này sẽ tạo thêm áp lực lãi suất tăng, rút vốn của khối ngoại và tỷ giá.

Riêng đối với thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP), các chuyên gia dự báo, năm 2022, khối lượng phát hành TPCP dự kiến không đổi so với năm trước do quy mô đáo hạn TPCP thấp hơn so với các năm trước, chỉ vào khoảng 50 nghìn tỷ đồng so với mức bình quân từ 100 đến 150 nghìn tỷ đồng, đã góp phần làm giảm áp lực phát hành thêm TPCP để tái cơ cấu nợ công. Bên cạnh đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng được dự báo sẽ phát triển theo hướng minh bạch, lành mạnh hơn, phụ thuộc khá nhiều vào nghệ thuật điều hành hợp lý của cơ quan chức năng.

Nhìn chung, năm 2022, thị trường tài chính Việt Nam được dự báo sẽ vận hành theo hướng có điều chỉnh, lành mạnh hóa và quy định chặt chẽ hơn với ba trụ cột là thị trường ngân hàng, thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm.

Tín nhiệm dài hạn của Việt Nam lên mức BB+,triển vọng "ổn định"

Ngày 26-5, tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P Global Ratings nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên mức BB+, triển vọng "Ổn định". S&P nâng hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam trên cơ sở ghi nhận nền kinh tế đang trên đà phục hồi vững chắc trong bối cảnh Chính phủ gỡ bỏ các hạn chế di chuyển trong nước và xuyên biên giới, tỷ lệ tiêm chủng được cải thiện ấn tượng và bước chuyển linh hoạt trong chính sách kiểm soát dịch Covid-19. Sự cải thiện rõ rệt về quy trình, thủ tục hành chính của Chính phủ, đặc biệt liên quan đến chất lượng quản trị các khoản nợ được bảo lãnh, cùng với triển vọng kinh tế mạnh mẽ, vị thế đối ngoại vững vàng và thu hút dòng vốn FDI bất chấp gián đoạn do đại dịch là những yếu tố quan trọng khiến S&P quyết định nâng hạng cho Việt Nam.


Theo Sông Trà/nhandan.vn
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Phó Thống đốc Phạm Tiến Dũng làm việc với Đoàn Cán bộ của Quỹ Tiền tệ Quốc tế
Phó Thống đốc Phạm Tiến Dũng làm việc với Đoàn Cán bộ của Quỹ Tiền tệ Quốc tế
22/11/2024 08:41 3 lượt xem
Sáng ngày 21/11/2024, tại trụ sở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Phó Thống đốc Phạm Tiến Dũng đã họp tổng kết với Đoàn Cán bộ của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
Bộ trưởng, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Cuba thăm và làm việc tại Ngân hàng Chính sách xã hội
Bộ trưởng, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Cuba thăm và làm việc tại Ngân hàng Chính sách xã hội
21/11/2024 11:10 110 lượt xem
Ngày 20/11/2024, Đoàn Lãnh đạo cấp cao Ngân hàng Trung ương Cuba do bà Juana Lilia Delgado Portal - Bộ trưởng, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Cuba làm Trưởng đoàn đã đến thăm và làm việc tại Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH).
Ban hành Tiêu chuẩn cơ sở đặc tả kỹ thuật QR Code hiển thị từ phía khách hàng tại Việt Nam
Ban hành Tiêu chuẩn cơ sở đặc tả kỹ thuật QR Code hiển thị từ phía khách hàng tại Việt Nam
21/11/2024 09:55 104 lượt xem
Ngày 15/11/2024, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ký ban hành Quyết định số 2525/QĐ-NHNN ban hành Tiêu chuẩn cơ sở (TCCS) Đặc tả kỹ thuật QR Code hiển thị từ phía khách hàng tại Việt Nam, ký hiệu TCCS 04:2024/NHNN.
BIDV và VRG hợp tác toàn diện giai đoạn 2024 - 2029
BIDV và VRG hợp tác toàn diện giai đoạn 2024 - 2029
21/11/2024 09:32 104 lượt xem
Ngày 18/11/2024, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) tổ chức Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác toàn diện giai đoạn 2024 - 2029, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong mối quan hệ giữa hai đơn vị.
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng tiếp Bộ trưởng, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Cuba
Thống đốc Nguyễn Thị Hồng tiếp Bộ trưởng, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Cuba
20/11/2024 17:06 137 lượt xem
Ngày 19/11/2024, tại trụ sở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Thống đốc Nguyễn Thị Hồng đã có buổi tiếp và làm việc với Bà Juana Lilia Delgado Portal - Bộ trưởng, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Cuba.
Triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia
Triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia
19/11/2024 20:56 212 lượt xem
Ngày 19/11/2024, tại Hà Nội, Tổ Thường trực giúp việc Ban Chỉ đạo quốc gia về tài chính toàn diện (Tổ Thường trực) đã có phiên họp thứ hai…
Ngành Ngân hàng luôn tiên phong, đi đầu trong việc áp dụng các tiêu chuẩn ESG
Ngành Ngân hàng luôn tiên phong, đi đầu trong việc áp dụng các tiêu chuẩn ESG
19/11/2024 15:17 205 lượt xem
Ngày 19/11/2024, tại Hà Nội, Báo Đầu tư đã tổ chức Hội thảo “ESG trong ngành Ngân hàng: Thực thi để dẫn đầu”. Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Đào Minh Tú đã đến dự và phát biểu tại Hội thảo.
Nhiều cơ chế chính sách ưu đãi về vốn cho vùng đồng bằng sông Cửu Long
Nhiều cơ chế chính sách ưu đãi về vốn cho vùng đồng bằng sông Cửu Long
19/11/2024 15:00 155 lượt xem
Ngày 18/11/2024, tại Cần Thơ, Báo Đại biểu Nhân dân đã tổ chức Hội thảo “Thúc đẩy tín dụng cho ngành hàng nông sản chủ lực, đưa đồng bằng sông Cửu Long phát triển nhanh, bền vững”. Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Đào Minh Tú đã đến dự và phát biểu tại Hội thảo.
Triển khai các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh
Triển khai các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh
19/11/2024 10:12 192 lượt xem
Ngày 14/11/2024, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có văn bản số 9364/NHNN-TD yêu cầu các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tập trung thực hiện các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh trong năm 2024 và những năm tiếp theo.
Giá vàngXem chi tiết

Giá vàng - Xem theo ngày

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

83,700

86,200

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

83,700

86,200

Vàng SJC 5c

83,700

86,220

Vàng nhẫn 9999

83,700

85,600

Vàng nữ trang 9999

83,600

85,200


Ngoại tệXem chi tiết
Tỷ giá - Xem theo ngày 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,150 25,502 26,092 27,523 31,263 32,592 158.81 168.04
BIDV 25,190 25,502 26,295 27,448 31,648 32,522 160.63 167.55
VietinBank 25,198 25,502 26,307 27,507 31,676 32,686 160.27 168.02
Agribank 25,200 25,502 26,225 27,408 31,448 32,511 160.54 168.04
Eximbank 25,160 25,502 26,287 27,168 31,543 32,559 161.12 166.54
ACB 25,170 25,502 26,309 27,212 31,642 32,598 160.68 167.03
Sacombank 25,180 25,502 26,294 27,267 31,555 32,708 160.81 167.32
Techcombank 25,184 25,502 26,134 27,486 31,274 32,605 157.32 169.76
LPBank 25,190 25,502 26,591 27,484 31,928 32,590 162.28 169.38
DongA Bank 25,230 25,500 26,300 27,150 31,600 32,550 159.20 166.40
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,50
2,70
3,50
3,70
4,40
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,80
2,90
3,20
4,20
4,30
4,90
5,00
Techcombank
0,05
-
-
-
3,10
3,10
3,30
4,40
4,40
4,80
4,80
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,20
4,20
4,20
5,30
5,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,90
3,90
4,10
5,55
5,70
5,80
6,10
Agribank
0,20
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
Eximbank
0,10
0,50
0,50
0,50
3,10
3,30
3,40
4,70
4,30
5,00
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?