Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ, sáng tạo, có phương pháp, chiến lược; chiến thuật cách mạng thích hợp, linh hoạt, phát huy cao nhất truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc đã được hình thành qua hàng ngàn năm lịch sử… Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả đấu tranh lâu dài của nhân dân Việt Nam chống đế quốc thực dân, lật đổ ách thống trị của chế độ thực dân phong kiến, thiết lập nên Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử của dân tộc Việt Nam: kỷ nguyên Độc lập - Tự do.
Từ năm 1945 đến nay, nền kinh tế Việt Nam trải qua các giai đoạn nổi bật sau:
1. Giai đoạn 1945 - 1954: Giai đoạn khó khăn nhất về kinh tế
Vừa mới ra đời, chính quyền cách mạng Việt Nam non trẻ đã phải đối phó với “giặc đói”, “giặc dốt”, và “giặc ngoại xâm”. Với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, nạn đói, lũ lụt lớn, hạn hán kéo dài; một nửa số ruộng đất không canh tác được. Các ngành sản xuất đều bị sa sút, ngưng trệ, hàng hóa trở lên khan hiếm, thị trường rơi vào tình trạng đình đốn, tiêu điều. Kho bạc hoàn toàn trống rỗng. Lạm phát phi mã, giá gạo từ chỗ 4 - 5 đồng/tạ, đến giữa năm 1945 đã lên tới 700 - 800 đồng/tạ. GDP bình quân đầu người năm 1945 chỉ đạt 60 đồng, tương đương 35 USD. Hơn 90% dân số Việt Nam vẫn không biết đọc, biết viết. Cuộc sống của nhân dân rơi xuống mức cùng cực…
Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó “chống giặc đói” được đặt lên hàng đầu, là nhiệm vụ cấp bách, đột xuất số một. Chính phủ kêu gọi nhân dân “nhường cơm, sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách”; đẩy mạnh sản xuất, trọng tâm là sản xuất nông nghiệp; tự do kinh doanh, buôn bán; tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian chia cho nông dân thiếu ruộng; chia lại ruộng đất công một cách công bằng, hợp lý hơn; quy định giảm tô, giảm tức; chủ trương tự do, tăng gia sản xuất, bảo vệ quyền lợi quốc gia, điều hòa quyền lợi giữa tư sản và lao động, giữa địa chủ và nông dân, giữ vững chủ quyền về quan thuế và ngoại thương; củng cố tài chính quốc gia; xóa bỏ các độc quyền nhà nước của chế độ thực dân Pháp và thực hiện chính sách đại đoàn kết rộng rãi mọi thành phần, tầng lớp trong xã hội: nông dân, công nhân, công thương gia…
Việt Nam đã đạt được những dấu ấn to lớn, toàn diện
và có ý nghĩa lịch sử trên các mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước ta đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Để giải quyết tình hình “thù trong, giặc ngoài”, Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" ngày 25/11/1945. Chỉ thị là tuyên bố quan trọng của Đảng trong việc giải quyết tình hình đất nước và đề ra những nhiệm vụ mới, với khẩu hiệu “Dân tộc trên hết", "Tổ quốc trên hết". Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc là một chủ trương lớn của Đảng, được xác định ngay trong Chỉ thị này, trở thành khẩu hiệu công khai lần đầu tiên tại phiên họp Quốc hội vào tháng 11/1946.
Đến năm 1946, nạn đói đã bị đẩy lùi trên cả nước, sản lượng lương thực đạt 1.155.000 tấn, gấp đôi năm 1945. Vào tháng 11/1946, Nhà nước chính thức cho phát hành giấy bạc Cụ Hồ trên phạm vi cả nước.
Ngay từ đầu kháng chiến, Chính phủ đã cho hoạt động trở lại một số mỏ ở vùng chiến khu mà Pháp khai thác trước đây; tập trung phát triển công nghiệp quốc phòng và thành lập Nhà máy Cơ khí Trần Hưng Đạo; tổ chức sản xuất thành công mẻ gang đầu vào tháng 7/1951. Nhà nước khuyến khích nhân dân tăng gia sản xuất nông nghiệp và các sản phẩm thiết yếu dân sinh như vải mặc, đường, mực, phấn viết, ngòi bút, thuốc lá, các đồ dùng gia đình, hóa chất, giấy, dệt, diêm, xà phòng, thuốc đánh răng, dầu, nung vôi, đóng gạch ngói, chế biến gỗ, chế biến thực phẩm và tự do giao thương hàng hóa; Chính phủ có chính sách cho vay phát triển ngành dệt, làm áo mưa, làm mực viết; ban hành chính sách thuế công thương nghiệp mới thay thế cho nhiều loại thuế được áp dụng trong thời gian trước (như thuế lãi doanh nghiệp, thuế lợi tức tổng hợp, các loại thuế thu khác); miễn thuế cho những nghề lặt vặt của dân nghèo, nghề phụ gia đình, những xí nghiệp sản xuất hàng hóa cho quân đội, những xí nghiệp hoạt động trong những điều kiện đặc biệt khó khăn; khuyến khích khôi phục hoạt động các làng nghề, các cơ sở sản xuất tiểu, thủ công nghiệp và thủ công nghiệp phục vụ cho quốc phòng và dân sinh.
Tiếp sau chiến thắng biên giới (tháng 10/1950), Việt Nam đã thiết lập và mở rộng, phát triển quan hệ kinh tế thương mại với các nước xã hội chủ nghĩa (Trung Quốc và Liên Xô), góp phần thúc đẩy sản xuất, khai thác lâm, thổ sản, cải thiện đời sống nhân dân. Năm 1952, số thu ngân sách Nhà nước (NSNN) đảm bảo được 78% số chi. Năm 1953, lần đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám, số thu NSNN vượt chi được 16%.
Ở các vùng giải phóng, sản xuất nông nghiệp phát triển, sản lượng lương thực năm 1954 đạt gần 3 triệu tấn, tăng 13,7% so với năm 1946. Từ năm 1946 -1950 đã sản xuất 20 nghìn tấn than cốc, 800 kg ăng-ti-moan; từ năm 1950 đến cuối năm 1952 sản xuất được 29,5 tấn thiếc, 43 tấn chì; những năm 1950 - 1954 sản xuất được 169,3 triệu mét vải, 31,7 nghìn tấn giấy… Chỉ số giá bán lẻ bình quân năm trong giai đoạn 1945 - 1954 tăng khoảng 66%. Từ 1946 - 1954 có 10,5 triệu người thoát nạn mù chữ.
Ngày 10/10/1954, Chính phủ kháng chiến tiếp quản Thủ đô Hà Nội; tổ chức bán những mặt hàng thiết yếu nhất cho đời sống nhân dân như gạo, muối, dầu hỏa, chất đốt; đồng thời, khuyến khích các cửa hàng của thương nhân hoạt động bình thường.
2. Giai đoạn 1955 - 1975: Phát triển kinh tế trong bối cảnh chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam
Trong giai đoạn này, ở miền Bắc, công cuộc khôi phục kinh tế đã đạt được những thành tựu to lớn.
Về nông nghiệp có sự phát triển tích cực, hết năm 1957 đã vượt mức của năm 1939, năm cao nhất trong thời kỳ Pháp thuộc: Diện tích trồng lúa của miền Bắc là 2.191.800 ha (so với 1.811.000 ha của năm 1939), năng suất 18,01 tạ/ha (so với 13,04 tạ/ha của năm 1939), sản lượng 3.948 tấn (so với 2.407 tấn của năm 1939), thóc bình quân đầu người là 286,7 kg (so với 211,2 kg của năm 1939); đàn trâu tăng 51,1%, đàn bò tăng 60,1%; đàn lợn tăng 30,8% so với năm 1939.
Về sản xuất công nghiệp, sản lượng công nghiệp quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn và ngày càng tăng (năm 1955: 41,7%; năm 1956: 60,3%; năm 1957: 66,6%). Mặt khác, thủ công nghiệp cũng được khuyến khích hỗ trợ nên phục hồi và phát triển khá, đến năm 1955 chỉ có 111.300 cơ sở với 298.400 lao động thì cuối năm 1957 đã có 156.329 cơ sở với 440.000 lao động. Do vậy, sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp tăng lên rõ rệt, cuối năm 1957 bằng 299,8% so với năm 1939, trong đó, nhóm A bằng 134,4% và nhóm B bằng 483,1% mức năm 1939. Số xí nghiệp công nghiệp được khôi phục năm 1955 là 21 cơ sở, năm 1956 là 110 cơ sở và năm 1957 là 150 cơ sở, trong đó có 93 xí nghiệp do Trung ương quản lý mà 50 xí nghiệp là cơ sở mới xây dựng, bao gồm cả Nhà máy Cơ khí Hà Nội, con đầu lòng của công nghiệp chế tạo máy tại Việt Nam.
Đến cuối năm 1959, số học sinh phổ thông tăng lên bằng 1,5 lần năm 1957, gấp 11 lần hồi Pháp thuộc; sinh viên đại học bằng 2,1 lần năm 1957, gấp 14 lần thời Pháp thuộc; số giường bệnh tăng gần 60% so với năm 1957, tất cả các xã đều có ban, phòng bệnh và nhiều cán bộ y tế cũng như nữ hộ sinh xã...
Từ 1958 - 1960, bình quân tổng sản phẩm xã hội tăng 14,1%. Năm 1975, GDP bình quân đầu người đạt 232 đồng, tương đương 80 USD.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, năm 1975 có 17 nghìn hợp tác xã nông nghiệp, tăng 12,2 nghìn hợp tác xã so với năm 1958; sản lượng lương thực quy thóc đạt 5,49 triệu tấn, tăng 1,73 triệu tấn so với năm 1955; năng suất lúa đạt 21,1 tạ/ha, tăng 5,2 tạ/ha; đàn lợn có 6,6 triệu con, tăng 4,2 triệu con.
Sản xuất công nghiệp từng bước được khôi phục và phát triển với đường lối công nghiệp hóa, nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp được phục hồi và xây dựng. Năm 1975, giá trị tổng sản lượng công nghiệp đạt 4.175,4 tỷ đồng, gấp 13,8 lần năm 1955; bình quân năm trong giai đoạn 1956 -1975 tăng 14%/năm.
Thương nghiệp quốc doanh được nhà nước quan tâm và có sự phát triển nhanh chóng, làm nhiệm vụ hậu cần cho sản xuất và chiến đấu. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội năm 1975 đạt 5.358,3 triệu đồng, gấp 7,8 lần so với năm 1955. Chỉ số giá bán lẻ giai đoạn 1955 - 1975 mỗi năm tăng 4,3%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 66% của thời kỳ 1945 - 1954.
Hoạt động giáo dục đạt được những thành tựu lớn. Số người đi học năm 1975 đạt 6.796,9 nghìn người, gấp 5,3 lần năm 1955. Tính bình quân cho 01 vạn dân, năm 1955 có 949 người đi học thì đến năm 1975 có 2.769 người, gấp 2,9 lần. Số bệnh viện được đầu tư xây dựng ở miền Bắc, từ 57 bệnh viện, 17 bệnh xá năm 1955 lên thành 442 bệnh viện và 645 bệnh xá năm 1975. Số lượng cán bộ ngành y cũng tăng nhanh từ 108 bác sĩ năm 1955 lên 5.684 bác sĩ năm 1975. Năm 1975, thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình công nhân viên chức ở miền Bắc là 27,6 đồng (tăng 57,7% so với năm 1945); thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc là 18,6 đồng (gấp 2,6 lần so với năm 1945).
3. Giai đoạn 1976 - 1985: Phục hồi kinh tế sau thống nhất đất nước
Thời kỳ này, Nhà nước quản lý nền kinh tế theo mô hình kinh tế Liên Xô, chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh, áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Sau hai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980) và lần thứ ba (1981 - 1985), Việt Nam đã từng bước khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh trên phạm vi cả nước.
Tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ này thấp và kém hiệu quả: Tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1977 - 1985 tăng 4,65%, trong đó: nông, lâm nghiệp tăng 4,49%/năm; công nghiệp tăng 5,54%/năm và xây dựng tăng 2,18%/năm. Khu vực kinh tế quốc doanh tăng 4,29%; khu vực kinh tế tập thể tăng 10,26% và khu vực kinh tế tư nhân, cá thể tăng 0,71%. Nông, lâm nghiệp chiếm 38,92% GDP và chủ yếu dựa vào độc canh trồng lúa nước. Công nghiệp chiếm 39,74% GDP. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội bình quân thời kỳ này tăng 61,6%/năm. Đặc biệt, tình trạng khan hiếm hàng hóa và lạm phát ngầm và mở ngày càng gia tăng, với chỉ số giá bán lẻ tăng bình quân 39,53%/năm trong cả giai đoạn 1976 - 1985. Ở miền Bắc, mặc dù thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình công nhân viên chức tăng từ 27,9 đồng năm 1976 lên đến 270 đồng năm 1984; thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng từ 18,7 đồng lên đến 505,7 đồng, nhưng do lạm phát cao, nên đời sống nhân dân hết sức khó khăn.
Đầu năm 1978, tất cả các tỉnh và thành phố miền Nam đã căn bản xóa nạn mù chữ. Trong tổng số 1.405,9 nghìn người được xác định không biết chữ, có 1.323,7 nghìn người thoát nạn mù chữ. Năm 1977, trên cả nước chỉ có 260 trường trung học chuyên nghiệp, hơn 117 nghìn sinh viên và 7,8 nghìn giáo viên. Đến năm 1985, số trường trung học chuyên nghiệp là 314 trường, với quy mô 128,5 nghìn sinh viên và 11,4 nghìn giáo viên (tăng 9% về số sinh viên và 44,9% về số giáo viên so với năm 1977).
Số giường bệnh thuộc các cơ sở y tế tăng từ 89,4 nghìn giường năm 1976 lên 114,7 nghìn giường năm 1985. Số nhân viên y tế tăng từ 110,9 nghìn người năm 1976 lên 160,2 nghìn người năm 1985, trong đó số bác sĩ tăng từ 9.104 người lên 19.029 người.
4. Giai đoạn 1986 - 2022: Phát triển, đổi mới cơ chế và tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế
Trong thời kỳ này, Việt Nam đã từng bước đổi mới tư duy và cơ chế quản lý kinh tế, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ chế khoán gọn đến hộ nông dân, thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn đã đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn nước ta. Ngành nông nghiệp đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Năm 2000, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 34,5 triệu tấn, gấp 2,1 lần năm 1986; lương thực có hạt bình quân đầu người đạt 444,8 kg, gấp 1,6 lần năm 1986; xuất khẩu gạo đạt 3.477 nghìn tấn, gấp hơn 26 lần năm 1986.
Sản xuất công nghiệp dần đi vào ổn định phát triển với tốc độ tăng bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1986 - 2000 đạt 11,09%. Sản lượng điện năm 2000 gấp 4,7 lần so với năm 1986; sản lượng xi măng gấp 8,7 lần; thép cán gấp 25,6 lần; thiếc gấp 3,6 lần. Sản lượng dầu thô đã tăng từ 41 nghìn tấn năm 1986 lên 16,3 triệu tấn năm 2000.
Giai đoạn 1986 - 2000, tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm tăng 6,51%; trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,72%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 9,06%; khu vực dịch vụ tăng 6,66%. Năm 2000, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 24,53% GDP, giảm 13,53 điểm phần trăm so với năm 1986; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 36,73%, tăng 7,85 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 38,74%, tăng 5,68 điểm phần trăm.
Đặc biệt, siêu lạm phát từng bước được kìm chế và đẩy lùi. Giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng từ mức tăng 3 chữ số mỗi năm trong 3 năm, 1986 - 1988, hai chữ số mỗi năm trong giai đoạn 1989 - 1992, đã giảm xuống chỉ còn tăng một chữ số trong giai đoạn 1993 - 2000. So với tháng 12 năm trước, chỉ số giá tiêu dùng năm 1988 tăng 349,4%; năm 1992 tăng 17,5% và năm 2000 giảm 0,6%.
Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác được củng cố và tăng cường. Tại thời điểm 01/4/1999, cả nước có 90% số trẻ em 14 tuổi tốt nghiệp tiểu học; 94% dân số trong độ tuổi 15 - 35 biết chữ. Sau 10 năm nỗ lực phấn đấu, đến giữa năm 2000, cả nước hoàn thành chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Thu nhập bình quân đầu người một tháng của dân cư tăng từ khoảng 1.600 đồng năm 1986 lên đến 295.000 đồng năm 1999. Thu nhập tăng nhanh góp phần làm cho công cuộc xóa đói, giảm nghèo của nước ta trong giai đoạn này đạt được những kết quả đáng kể. Nếu như năm 1993, tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam tính theo phương pháp của Ngân hàng Thế giới là 58,1%, thì đến năm 1998 tỷ lệ nghèo này giảm xuống còn 37,4%.
Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Organization - WTO) từ ngày 11/01/2007. Sự kiện lớn này đã để lại nhiều dấu ấn tích cực trên hành trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Việc tham gia WTO và hội nhập quốc tế là góp phần đổi mới tư duy chính sách và hoàn thiện chuẩn mực quản lý nhà nước, cũng như quản trị doanh nghiệp, định hình khung khổ pháp lý và các chuẩn mực phát triển các thể chế kinh tế - thương mại, tạo cơ sở pháp lý vững chắc làm cầu nối và xung lực tích cực để Việt Nam từng bước mở cửa, mở rộng quy mô thị trường hàng hóa và dịch vụ, cải thiện cơ cấu và nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại quốc tế theo các thỏa thuận đa phương và song phương mà Việt Nam đã cam kết.
Đến năm 2020, Việt Nam có 30 đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện; có quan hệ ngoại giao với 189/193 nước (so với 11 nước năm 1954) và quan hệ kinh tế với 160 nước và 70 vùng lãnh thổ; 79 nước đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Đặc biệt, WTO cùng với hơn hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực, trong đó có 17 Hiệp định Thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam tham gia (16 hiệp định đã ký kết, có hiệu lực và 01 hiệp định đang đàm phán) là những cánh cửa lớn và đa chiều để Việt Nam định hướng hoàn thiện khung khổ thể chế phát triển kinh tế thị trường và tự tin hội nhập toàn cầu ngày càng sâu, rộng và hiệu quả hơn.
Dấu ấn WTO được ghi nhận rõ nét khi đưa Việt Nam trở thành một nền kinh tế có độ mở cao, tới 200% GDP và cải thiện cán cân thương mại hàng hóa chuyển từ nhập siêu sang xuất siêu 6 năm liên tục từ 2016 đến nay (dù vẫn nhập siêu dịch vụ).
Theo Tổng cục Thống kê, đến năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt tới 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm trước. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm trước; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 247,54 tỷ USD, tăng 21,1%, chiếm 73,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Cả nước có 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 8 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 69,7%); kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 332,25 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm trước và có 47 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm 94,1% tổng kim ngạch nhập khẩu. Từ năm 2016 đến nay, cán cân thương mại luôn đạt thặng dư với mức xuất siêu tăng dần qua các năm từ 1,77 tỷ USD (năm 2016); 2,1 tỷ USD (năm 2017); 6,8 tỷ USD (năm 2018); 10,9 tỷ USD (năm 2019); trên 19 tỷ USD (năm 2020) và gần 4 tỷ USD năm 2021. Tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến tăng từ 80,3% kim ngạch xuất khẩu năm 2016 lên mức 85,1% năm 2019 và 85,2% trong năm 2020. Trong khi đó, tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản giảm từ 2% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2016 xuống còn 1% năm 2020. Số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD tăng dần và lên 31 mặt hàng năm 2020. Theo Báo cáo Rà soát thống kê thương mại thế giới năm 2020 của WTO đã ghi nhận, trong số 50 nước có nền thương mại hàng hóa lớn nhất thế giới, Việt Nam có mức tăng trưởng lớn nhất khi dịch chuyển từ vị trí thứ 39 vào năm 2009 lên vị trí thứ 23 vào năm 2019 và lọt vào Top 20 năm 2021.
Việc tuân thủ các cam kết hội nhập cũng giúp Việt Nam cải thiện nhiều chỉ số xếp hạng quốc tế quan trọng khác. Theo đánh giá và xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (GCI) của Việt Nam đã cải thiện, từ thứ hạng 68/131 vào năm 2007 lên thứ 78/140 năm 2018, tăng 12 bậc so với năm 2017 (trong đó, năm 2018 và 2019 đứng thứ 27/190 nước về Chỉ số tiếp cận điện năng) và tăng tiếp lên thứ 67/141 nền kinh tế vào năm 2019. Cũng trong năm 2019, trước khi dịch Covid-19 bùng phát trên thế giới, Việt Nam được coi là quốc gia có nền kinh tế ổn định và tăng trưởng nhanh top đầu khu vực và thế giới; là năm thứ 2 liên tiếp cả nước đạt toàn bộ 12 chỉ tiêu kế hoạch chủ yếu, trong đó 5 chỉ tiêu vượt kế hoạch, được Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đánh giá nằm trong số 20 nền kinh tế có đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu năm 2019. Đồng thời, Việt Nam cũng lọt vào Top 10/163 nước đáng sống nhất thế giới của HSBC Expat 2019; đứng thứ 83/128 nước trong Xếp hạng 2019 về các nước an toàn nhất và xếp thứ 128/192 nước giàu nhất thế giới do Tạp chí Global Finance công bố; xếp hạng 94/156 nước trong bảng xếp hạng “Quốc gia Hạnh phúc” năm 2019, World Happiness Report, được Mạng lưới các giải pháp phát triển bền vững của Liên hiệp quốc (United Nations Sustainable Development Solutions Network) công bố vào ngày 20/3/2019. Việt Nam đứng thứ 84/161 nước trong Xếp hạng bảo vệ nhà đầu tư (Best Countries for Business) của Forbes năm 2019 (Anh đứng số 1, với 15 chỉ số như sáng tạo, thuế, công nghệ, tham nhũng, hạ tầng, rủi ro chính trị, nhân lực, bảo vệ nhà đầu tư); Việt Nam xếp hạng 39/80 các nước "Tốt nhất thế giới" theo đánh giá của trang U.S. News & World Report…
Năm 2020, quy mô GDP Việt Nam đứng thứ 44 trên thế giới, đứng thứ 04 Đông Nam Á và bình quân GDP/đầu người đứng thứ 6. Đồng thời, Việt Nam là thương hiệu quốc gia tăng giá trị nhanh nhất thế giới trong năm 2020, khi tăng tới 29% so với năm trước, lên 319 tỷ USD; từ vị trí 42 lên 33 trong danh sách 100 thương hiệu quốc gia của Brand Finance (hãng định giá thương hiệu và tư vấn chiến lược độc lập hàng đầu của Anh).
Theo bảng xếp hạng về Chỉ số tự do kinh tế năm 2021 (Index of Economic Freedom 2021) mới công bố của Heritage Foundation (Mỹ), với điểm tổng thể của Việt Nam là 61,7 điểm (cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới). Việt Nam là nền kinh tế tự do đứng thứ 17/40 quốc gia ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và đứng thứ 90/184 nền kinh tế trên thế giới trong bảng xếp hạng điểm số tự do kinh tế của Heritage Foundation. Đây cũng là năm đầu tiên kinh tế Việt Nam bước vào nhóm các nền kinh tế có "tự do trung bình" (Moderately Free), tăng 15 bậc so với năm ngoái, từ nhóm được xem là hầu như không tự do kinh tế. Những năm gần đây Chỉ số tự do kinh tế của Việt Nam liên tục được cải thiện, với điểm tổng thể năm 2016 là 54 điểm; năm 2017 là 52,4 điểm; năm 2018 là 53,1 điểm; năm 2019 là 55,3 và năm 2020 Việt Nam là 58,8 điểm. Như vậy, chỉ sau 02 năm, Việt Nam đã thăng 36 bậc.
Còn theo Báo cáo chỉ số quyền lực mềm toàn cầu (Brand Finance Global Soft Power Index Report) năm 2021, được Brand Finance - Công ty tư vấn chiến lược và định giá thương hiệu độc lập hàng đầu thế giới, có trụ sở tại London (Anh) công bố tại “Hội nghị thượng đỉnh 2021 về quyền lực mềm toàn cầu” ngày 25/02/2021 (giờ Việt Nam), Việt Nam là quốc gia duy nhất trong khối ASEAN được nâng hạng trong bảng xếp hạng quyền lực mềm toàn cầu. Cụ thể, vị trí của Việt Nam được cải thiện, tăng 2,5 điểm, thay đổi từ 50/60 lên 47/105 quốc gia được xếp hạng. Việt Nam được đánh giá là điểm sáng nhờ sự tăng hạng vượt bậc về thương hiệu quốc gia và những kết quả về kinh tế, xã hội đã đạt được trong năm qua. Theo đánh giá của Brand Finance, Việt Nam đã phát huy tương đối tốt mọi khía cạnh của quyền lực mềm, đặc biệt là sự hội nhập của Thương hiệu quốc gia Việt Nam và các thương hiệu sản phẩm hàng đầu. Uy tín quốc gia của Việt Nam trong năm qua đã tăng lên phần lớn nhờ chủ trương và phản ứng nhanh nhạy của Chính phủ, đặc biệt là sự chỉ đạo sát sao trong công tác hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng và quảng bá thương hiệu trong và ngoài nước cũng như sự năng động, nỗ lực của doanh nghiệp Việt Nam. “Quyền lực mềm” Việt Nam không chỉ là sự kế thừa và phát huy nền tảng vốn có từ lịch sử dân tộc hào hùng, nền văn hiến, chính sách đối ngoại hòa bình… mà còn là sự phát triển, tận dụng cả những vị thế mới, lợi thế mới. Trong nền kinh tế hiện đại và không ngừng phát triển, thương hiệu sản phẩm của quốc gia nào chiếm lĩnh thị trường quốc tế càng lớn thì quốc gia đó càng hùng mạnh…
Bên cạnh các chỉ số về kinh tế, theo khảo sát và đánh giá của Liên hợp quốc, Chỉ số phát triển bền vững (SDG) của Việt Nam đã liên tục gia tăng từ vị trí 88 vào năm 2016 lên 57 vào năm 2018 và 49 vào năm 2020. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020, với mức giảm trung bình là trên 1,4% mỗi năm.
Việt Nam đã đạt được sự tiến bộ trong xếp hạng của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) - cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc. Năm 2021, Việt Nam được WIPO xếp thứ 44, tức là nằm trong khoảng tin cậy (từ khoảng 42 - 47) của thứ hạng này. Theo công bố xếp hạng các nền kinh tế tốt nhất để đầu tư của Tạp chí U.S. News & World Report, Việt Nam xếp thứ 8 trong Top 20 nền kinh tế tốt nhất để đầu tư năm 2019, tăng từ vị trí 23 của năm 2018.
Theo dự báo mới nhất ngày 8/8/2022 của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam trong Báo cáo Điểm lại cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam ấn phẩm tháng 8/2022 với tựa đề “Giáo dục để tăng trưởng”, năm 2022, GDP của Việt Nam sẽ tăng trưởng từ 2,6% trong năm 2021 lên 7,5% và lạm phát trung bình là 3,8%.
Về tổng thể, sau 77 năm kể từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, tuy vẫn còn tồn tại những hạn chế, nhưng nước ta đã đạt được những dấu ấn to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử trên các mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, làm thay đổi căn bản bộ mặt của đất nước.
Những thành tựu đó là kết quả của quá trình dài nỗ lực, bền bỉ và kiên định thực hiện đồng bộ nhiều chính sách cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; sửa đổi các quy định pháp luật; thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo hướng hiện đại, minh bạch, tạo sự cạnh tranh công bằng, bình đẳng cho doanh nghiệp và tiệm cận với chuẩn mực quốc tế theo yêu cầu của WTO và các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục tham gia…
Đồng thời, thực tế cũng đòi hỏi cần tiếp tục phát huy tinh thần Cách mạng Tháng Tám, gia tăng những nỗ lực mới, nhận diện và giải quyết hiệu quả hơn các khó khăn, thách thức, tham gia sâu hơn vào các chuỗi giá trị toàn cầu… tạo động lực và là động năng mạnh mẽ để giúp Việt Nam phát triển kinh tế bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh vĩ mô và vi mô, nâng cao đời sống người dân, đóng góp vào sự thịnh vượng chung của khu vực và thế giới trong thời kỳ mới…
Tài liệu tham khảo:
1. GS. Văn Tạo, "Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam - Những chứng tích lịch sử".
TS. Nguyễn Minh Phong