Trong chương trình chuyển đổi số giai đoạn hiện nay, bên cạnh một số thách thức như vốn đầu tư cho công nghệ, nhân sự, an ninh, bảo mật, ngành Ngân hàng đang gặp khó khăn về hành lang pháp lý do còn thiếu và chưa đồng bộ. Do đó, thời gian tới, cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách tạo điều kiện cho chia sẻ dữ liệu, kết nối giữa các bộ, ngành liên quan với ngành Ngân hàng một cách an toàn, hiệu quả, đảm bảo mang lại lợi ích cho toàn dân.
Tại sự kiện “Chuyển đổi số ngành Ngân hàng” do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tổ chức ngày 04/8/2022, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nhấn mạnh: “Chúng ta phải có cách tiếp cận toàn dân, người dân là trung tâm thì mọi hoạt động chuyển đổi số phải hướng tới người dân; người dân là chủ thể thì mọi người dân phải được tham gia và hưởng lợi, chỉ có như vậy thì chuyển đổi số mới thành công”.
Chuyển đổi số được đề cập như là một trong những trụ cột chính trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 của Đại hội XIII của Đảng. Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định mục tiêu và định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 là phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia. Tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình “Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, tài chính - ngân hàng được xác định là một trong 08 lĩnh vực cần ưu tiên chuyển đổi số do có thể thay đổi nhận thức nhanh nhất, giúp tiết kiệm chi phí và mang lại hiệu quả xã hội cao.
Ngành Ngân hàng đi đầu và gặt hái nhiều “trái ngọt” trong chuyển đổi số
Để triển khai định hướng, chỉ đạo và nhiệm vụ được giao một cách thống nhất, xuyên suốt, NHNN đã thành lập Ban chỉ đạo chuyển đổi số ngành Ngân hàng do Thống đốc NHNN là Trưởng ban chỉ đạo, thành viên là thủ trưởng các đơn vị vụ, cục chức năng của NHNN và chủ tịch/tổng giám đốc một số tổ chức tín dụng (TCTD), trung gian thanh toán.
Ngày 11/5/2021, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 810/QĐ-NHNN phê duyệt Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Việc ban hành Quyết định số 810/QĐ-NHNN có thể xem là dấu mốc có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện sự chủ động, sáng tạo, bám sát chủ trương, định hướng của Đảng, Chính phủ và thống nhất ý chí, hành động toàn Ngành để tạo sức mạnh cộng hưởng to lớn giúp ngành Ngân hàng phát triển bền vững trong kỷ nguyên số, tiếp tục tiên phong trong triển khai Chương trình chuyển đổi số quốc gia và đóng góp tích cực cho sự phát triển nền kinh tế số Việt Nam.
Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng là một cấu phần trong Chương trình Chuyển đổi số quốc gia. Kế hoạch được xây dựng, tiếp cận theo hướng đặt người dân, khách hàng ở vị trí trung tâm. Mục tiêu tổng quát của Kế hoạch mặc dù được phân chia theo nhóm NHNN và các TCTD nhưng đều hướng tới việc phục vụ tốt hơn cho người dân, cho khách hàng.
Nhìn chung, việc xác định mục tiêu tổng quát tại Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng được tiếp cận từ góc độ ngân hàng là bên cung ứng dịch vụ phục vụ người dân, doanh nghiệp, phục vụ khách hàng và cách tiếp cận này cũng được thống nhất, xuyên suốt từ quan điểm xây dựng Kế hoạch, đó là “nâng cao chất lượng cung ứng sản phẩm, dịch vụ, gia tăng trải nghiệm và đáp ứng nhu cầu khách hàng là thước đo hiệu quả của quá trình chuyển đổi số”.
Bên cạnh đó, NHNN thường xuyên rà soát để chỉnh sửa, bổ sung khuôn khổ pháp lý nhằm tạo thuận lợi, thúc đẩy chuyển đổi số, phát triển hoạt động ngân hàng số, cụ thể như: NHNN đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 87/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống rửa tiền, trong đó cho phép các tổ chức tài chính được thực hiện nhận biết khách hàng thông qua ứng dụng công nghệ, không cần gặp mặt trực tiếp khách hàng; xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn về thanh toán QR Code, tiêu chuẩn thẻ chíp nhằm tăng cường kết nối, xử lý liên thông trong thanh toán cũng như tích hợp với các ngành, lĩnh vực khác...; ban hành quy định và cấp phép cho 48 tổ chức không phải ngân hàng cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán; ban hành hướng dẫn mở tài khoản thanh toán của cá nhân, mở thẻ ngân hàng bằng phương thức định danh điện tử (eKYC); trình Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định phê duyệt triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ (Mobile-Money) và đã phối hợp với các bộ cấp phép thí điểm Mobile-Money cho 03 nhà mạng viễn thông; ban hành Chỉ thị về việc đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn thông tin trong hoạt động ngân hàng; sửa đổi, bổ sung và ban hành nhiều thông tư hướng dẫn về công tác đảm bảo an ninh, an toàn và hoạt động nghiệp vụ hướng tới việc phù hợp với cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số... NHNN đang tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan như: Xây dựng và trình Chính phủ dự thảo Nghị định thanh toán không dùng tiền mặt (thay thế Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ); trình Chính phủ Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng làm cơ sở cho việc ứng dụng nhanh chóng các công nghệ, giải pháp đổi mới sáng tạo vào lĩnh vực ngân hàng; nghiên cứu, đề xuất sửa đổi các quy định về Luật Giao dịch điện tử để đảm bảo đầu tư và huy động nguồn lực từ doanh nghiệp, xã hội, thúc đẩy chuyển đổi số...
Đồng thời, NHNN thường xuyên quan tâm đến việc nâng cấp, xây dựng hạ tầng phục vụ hoạt động chuyển đổi số. Các ngân hàng thương mại (NHTM) cũng không ngừng đầu tư công nghệ, hạ tầng kỹ thuật để tăng cường an ninh bảo mật, cung ứng nhiều sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tiện ích cho khách hàng. Công tác truyền thông giáo dục tài chính được đẩy mạnh nhằm nâng cao kỹ năng và khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính - ngân hàng cho khách hàng trên môi trường số.
Với những nỗ lực đó, chuyển đổi số ngành Ngân hàng đã gặt hái nhiều “trái ngọt”. Các dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là dịch vụ thanh toán điện tử có tốc độ số hóa, tăng trưởng nhanh. Nhiều nghiệp vụ ngân hàng đã được số hóa toàn diện 100%; nhiều ngân hàng đã ghi nhận tỷ lệ hơn 90% giao dịch của khách hàng được thực hiện qua kênh số. Năm 2021, thanh toán qua các kênh thanh toán điện tử duy trì mức tăng trưởng cao so với năm 2020: Giao dịch qua kênh Internet tăng tương ứng 48,76% về số lượng giao dịch và 32,59% về giá trị; giao dịch qua kênh điện thoại di động tăng tương ứng 75,97% về số lượng và 87,5% về giá trị. Trong 8 tháng đầu năm 2022, thanh toán trên thiết bị di động tăng 107% về số lượng và 92% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021.
Nhiều giải pháp, ứng dụng thanh toán mới xuất hiện (như thanh toán, chuyển tiền tức thời cho phép kiểm tra thông tin tài khoản người nhận để hạn chế sai sót; thanh toán nhanh chóng, tiện lợi một chạm qua QR Code động không đòi hỏi nhập số tiền thanh toán; thanh toán sử dụng biệt danh - Alias để giảm bớt bước nhập thông tin tài khoản...) đã chứng tỏ khả năng công nghệ, sáng tạo, nhạy bén với nhu cầu thị trường của ngành Ngân hàng Việt Nam, góp phần tạo ra giá trị mới, cung ứng những sản phẩm, dịch vụ hữu ích cho người dân, xã hội. Tỷ lệ người dân trưởng thành có tài khoản thanh toán đạt gần 68% với tốc độ tăng trưởng bình quân 11,44% từ năm 2015 - 2021.
Theo hãng tư vấn chiến lược toàn cầu McKinsey, ngành Ngân hàng Việt Nam được đánh giá có mức độ ứng dụng ngân hàng số với tốc độ nhanh nhất trong khu vực, tăng từ 41% năm 2015 lên đến 82% vào năm 2021, cao hơn mức tăng bình quân 23% của toàn khu vực và thậm chí cao hơn mức tăng bình quân 33% của thị trường mới nổi.
Mặc dù xu hướng chuyển đổi số ngành Ngân hàng đã phát triển mạnh, đạt được nhiều thành tựu đáng chú ý, nhưng thực tế cũng đặt ra nhiều thách thức lớn về các vấn đề như: Sự đồng bộ và phù hợp của các quy định pháp lý hiện hành liên quan về giao dịch điện tử, chữ ký điện tử, chứng từ điện tử, việc định danh và xác thực khách hàng điện tử, việc chia sẻ dữ liệu và bảo mật thông tin khách hàng, quy định nghiệp vụ xử lý giao dịch trên nền tảng số... Hiện tại có tới 94 - 96% các giao dịch ngân hàng được thực hiện trên kênh số, tuy nhiên, dự thảo Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) còn rất nhiều bất cập, vướng mắc cần điều chỉnh...
So với Luật Giao dịch điện tử 2005, dự thảo Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) đã được Quốc hội lấy ý kiến sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung bất cập, đảm bảo phù hợp hơn với thực tiễn thị trường và thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho các TCTD phát triển và mở rộng các hoạt động ngân hàng điện tử.
Ngoài vấn đề pháp lý nói trên, hạ tầng kỹ thuật của một số đơn vị trong và ngoài Ngành vẫn là những hệ thống cũ, chưa được nâng cấp để đảm bảo sự tương thích cho chuyển đổi số và việc thiếu hụt các tiêu chuẩn chung dẫn tới thách thức cho việc tích hợp và kết nối, liên thông giữa các đơn vị trong triển khai các sản phẩm, dịch vụ số hóa. Xu hướng gia tăng hoạt động tội phạm, tấn công mạng, tốc độ thay đổi nhanh chóng của công nghệ và đảm bảo an ninh, an toàn bảo mật xuyên suốt trong quá trình cung ứng dịch vụ tới khách hàng; việc thiếu hụt nhân sự trình độ cao cũng như cạnh tranh nhân sự trong tuyển dụng và sự cân bằng về hiệu quả trong đầu tư nguồn lực cho chuyển đổi số... đang là những thách thức với ngành Ngân hàng.
Cần tiếp tục các giải pháp tổng thể, thúc đẩy chuyển đổi số
Để quá trình chuyển đổi số ngành Ngân hàng đạt được các mục tiêu đề ra cần nhiều giải pháp tổng thể.
Ở tầm vĩ mô, các bộ, ngành liên quan cần tiếp tục phối hợp xây dựng, hoàn thiện, trình Chính phủ chính sách để các NHTM có thể được chia sẻ dữ liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, tăng cường kết nối giữa các cơ quan Chính phủ, cần sớm hoàn thiện Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi, bổ sung). Luật Giao dịch điện tử sửa đổi, bổ sung cần phù hợp với thực tiễn để không riêng ngành Ngân hàng mà tất cả các bộ, ngành có thể từng bước chuyển đổi số thành công.
Đối với vấn đề ứng dụng dữ liệu dân cư, ngày 06/01/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 06/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030 (Quyết định số 06/QĐ-TTg) đã đặt ra mục tiêu nghiên cứu, triển khai rộng rãi việc ứng dụng các tính năng của chíp điện tử trên căn cước công dân (CCCD) vào các lĩnh vực tài chính, hoạt động ngân hàng (mở tài khoản, nhận biết khách hàng, thanh toán, cho vay, ví điện tử...). NHNN đang tích cực phối hợp với Bộ Công an nghiên cứu, xây dựng phương án để các TCTD, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán có thể khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu CCCD, thẻ CCCD gắn chíp phục vụ xác minh thông tin nhận biết khách hàng. Hiện nay, một số ngân hàng đang phối hợp với Bộ Công an để thử nghiệm giải pháp triển khai xác thực khách hàng bằng thẻ CCCD gắn chíp để thực hiện giao dịch rút tiền, chuyển tiền tại ATM và hướng tới ứng dụng triển khai rộng rãi các tính năng trên chíp thẻ CCCD, khai thác thông tin cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trong các nghiệp vụ ngân hàng.
Bám sát các chủ trương của Chính phủ về chuyển đổi số quốc gia, ngành Ngân hàng cần tiếp tục các giải pháp:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, khung khổ pháp lý trong hoạt động ngân hàng thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), tạo thuận lợi và thúc đẩy các mô hình kinh doanh, quản trị, điều hành trong lĩnh vực ngân hàng theo hướng bứt phá, đổi mới, sáng tạo nhưng vẫn chú trọng tới công tác đảm bảo an ninh mạng và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nhằm hạn chế những rủi ro, thách thức từ bối cảnh CMCN 4.0... Trong thời gian tới, NHNN cần tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp đã đặt ra tại Kế hoạch của ngành Ngân hàng triển khai Quyết định số 06/QĐ-TTg, trong đó phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an (C06) để các ngân hàng có thể triển khai rộng rãi việc xác thực khách hàng thông qua thẻ CCCD gắn chíp, ứng dụng phần mềm VNEID (ứng dụng như thẻ thông hành di chuyển nội địa), khai thác hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu CCCD vào hoạt động ngân hàng giúp đem đến trải nghiệm thuận tiện và an toàn nhất cho người dân khi sử dụng các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt.
Thứ hai, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hạ tầng công nghệ phục vụ cho việc cung ứng các sản phẩm số; tăng cường tích hợp, kết nối với các bộ, ngành, lĩnh vực khác để cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trên nền tảng số; nâng cao chất lượng phục vụ và tăng tính tiện ích, trải nghiệm cho khách hàng.
Thứ ba, ưu tiên đầu tư, ứng dụng mạnh mẽ các công nghệ số vào hoạt động ngân hàng; ưu tiên phát triển ngân hàng theo mô hình ngân hàng số, trong đó lấy thanh toán số làm cửa ngõ để kết nối liền mạch với các dịch vụ ngân hàng khác như huy động, cho vay, đầu tư, bảo hiểm... và giao tiếp thuận tiện với các hệ sinh thái số bên ngoài nhằm cung ứng các sản phẩm, dịch vụ an toàn, tiện lợi, cá nhân hóa với chi phí hợp lý và sự tường minh.
Thứ tư, đối với vấn đề an ninh bảo mật, về phía NHNN cần tiếp tục nghiên cứu, áp dụng các tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế trong các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) của các TCTD đảm bảo an toàn, bảo mật; đưa vào áp dụng khung đánh giá rủi ro CNTT theo thông lệ quốc tế để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra tuân thủ các quy định về an toàn, bảo mật tại các TCTD, tổ chức trung gian thanh toán; tiếp tục đẩy mạnh hoạt động của mạng lưới ứng cứu sự cố an ninh CNTT ngành Ngân hàng; phối hợp với các cơ quan chức năng của Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ và các tổ chức cung cấp dịch vụ hạ tầng CNTT... để chia sẻ thông tin và hỗ trợ hoạt động đảm bảo an toàn, an ninh mạng của ngành Ngân hàng.
Về phía các TCTD: Cần rà soát, hoàn thiện và tổ chức triển khai chính sách về an ninh bảo mật CNTT, chính sách về quản lý rủi ro CNTT tuân thủ các văn bản pháp luật của Nhà nước và các quy định của NHNN; xây dựng lộ trình triển khai áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về an ninh bảo mật cho hệ thống CNTT cũng như các dịch vụ thanh toán trực tuyến, thanh toán thẻ; rà soát chặt chẽ các quy trình đăng ký, kích hoạt sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử đảm bảo cung cấp dịch vụ cho đúng khách hàng. Đồng thời, các TCTD cần triển khai tích cực các giải pháp về công nghệ. Trong đó, cần đẩy mạnh xây dựng trung tâm điều hành an ninh mạng để theo dõi, giám sát và ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm nhập, tấn công mạng; thường xuyên định kỳ đánh giá các điểm yếu, lỗ hổng của hệ thống CNTT. Xây dựng và triển khai diễn tập các quy trình, kịch bản ứng phó với các sự cố an toàn thông tin mạng.
Ngoài ra, các TCTD cần kiện toàn bộ máy CNTT các cấp theo hướng chuyên môn hóa, làm chủ công nghệ, hạn chế sự phụ thuộc vào các đối tác bên ngoài. Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách về an toàn thông tin. Đào tạo, huấn luyện nâng cao kỹ năng xử lý rủi ro cho nhân viên; xây dựng quy trình xử lý khủng hoảng truyền thông một cách chặt chẽ, khoa học và chuyên nghiệp. Tăng cường công tác kiểm toán nội bộ đảm bảo an toàn các hoạt động nghiệp vụ và hạ tầng CNTT.
Thứ năm, chú trọng công tác nhân sự, coi nguồn nhân lực có chất lượng cao là nhân tố quyết định thành công trong chuyển đổi số ngân hàng. Tăng cường công tác đào tạo, đào tạo lại, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giúp người lao động ngành Ngân hàng được trang bị những kỹ năng, phát triển năng lực thích ứng với bối cảnh CMCN 4.0.
Thứ sáu, tiếp tục tăng cường công tác truyền thông, giáo dục tài chính, nâng cao nhận thức, hiểu biết của người dân về ứng dụng kỹ thuật số và những lưu ý để phòng, tránh rủi ro khi thực hiện giao dịch trên môi trường điện tử.
Cùng với đó, quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng dịch vụ tài chính cần được quan tâm. Do đó, Việt Nam cần thành lập các cơ quan chuyên trách thực hiện bảo vệ người tiêu dùng tài chính.
Tài liệu tham khảo:
1. Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình “Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
2. Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021 của Thống đốc NHNN phê duyệt Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
3. https://chinhphu.vn
Tuyết Minh