Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), thương mại điện tử đang có những bước phát triển vượt bậc. Việc triển khai và vận hành phương thức thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) sẽ góp phần thúc đẩy quá trình giao dịch tại các quốc gia. Thanh toán di động mà cụ thể là ví điện tử và Mobile-Money là 2 loại hình TTKDTM được chú ý trong giai đoạn hiện nay. Với hơn 40 doanh nghiệp ngoài ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cấp phép hoạt động trung gian thanh toán, thị trường thanh toán di động ở Việt Nam sẽ có nhiều bước phát triển cũng như cạnh tranh khốc liệt trong thời gian tới. Bài viết đi sâu làm rõ những ưu điểm, hạn chế trong việc triển khai, vận hành và sử dụng, từ đó đưa ra các giải pháp thúc đẩy sự phát triển các loại hình thanh toán di động này nhằm phát triển tài chính toàn diện ở Việt Nam.
Từ khóa: Thanh toán di động, ví điện tử, Mobile-Money, TTKDTM.
1. Giới thiệu
Đối với nền kinh tế, TTKDTM có ý nghĩa quan trọng đến việc tiết kiệm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, từ đó giảm bớt những phí tổn to lớn của xã hội có liên quan đến việc phát hành và lưu thông tiền. Trước hết, đó là tiết kiệm chi phí in tiền, sau đó là những chi phí cho việc kiểm đếm, chuyên chở, bảo quản và hủy bỏ tiền cũ, rách. TTKDTM ở nước ta được tổ chức thành một hệ thống thống nhất. Trong hệ thống này, ngân hàng là một trung tâm thanh toán, mọi hoạt động trao đổi hàng hóa, dịch vụ đều được kết thúc bằng thanh toán cho nên quan hệ thanh toán liên quan tới tất cả mọi hoạt động trong xã hội, trong toàn bộ nền kinh tế. Do đó, việc tổ chức tốt công tác thanh toán nói chung và TTKDTM nói riêng có một ý nghĩa và vai trò lớn trong nền kinh tế. TTKDTM là hình thức sử dụng công cụ tiền tệ tiến bộ nhất hiện nay, nó tạo ra tiền đề để áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, mang lại những lợi ích kinh tế to lớn. TTKDTM ra đời và phát triển trên cơ sở của nền kinh tế thị trường. Song chính nó lại trở thành nhân tố thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển, nó là khâu đầu và cũng là khâu kết thúc của quá trình sản xuất, liên quan đến toàn bộ quá trình lưu thông hàng hóa, tiền tệ của các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội. Ngoài các dịch vụ thanh toán trực tuyến của ngân hàng như Internet Banking, SMS Banking... với sự phát triển và lan tỏa một cách rộng rãi CMCN 4.0, các phương thức thanh toán trực tuyến đã dần có xu hướng đa dạng hóa và vượt qua giới hạn của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM). Điển hình là sự phát triển của loại hình Mobile-Money và ví điện tử.
Mobile-Money giúp thúc đẩy hoạt động TTKDTM, phát triển tài chính toàn diện ở những khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là những khu vực mà hệ thống tài chính, ngân hàng chưa phát triển, người dân chưa hoặc không có khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng; giúp giảm các chi phí xã hội để phát triển, mở rộng các dịch vụ ngân hàng, qua đó, góp phần nâng cao mức sống người dân, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các doanh nghiệp viễn thông sẽ tận dụng được mạng lưới viễn thông, các điểm giao dịch rộng khắp cả nước để phát triển và đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm, dịch vụ và đối tượng khách hàng ngoài các dịch vụ viễn thông truyền thống. Do vậy, doanh nghiệp viễn thông có thể mở rộng dư địa để tăng doanh thu và nâng cao khả năng cạnh tranh.
Bài viết đi sâu phân tích thực trạng ứng dụng ví điện tử và triển khai Mobile-Money ở Việt Nam nhằm đánh giá những thành công, hạn chế, qua đó đề xuất các giải pháp thúc đẩy phát triển hình thức thanh toán di động ở Việt Nam trong thời gian tới.
2. Tổng quan về Mobile-Money và ví điện tử
Thanh toán di động (còn được gọi là chuyển tiền di động, ví di động) thường đề cập đến các dịch vụ thanh toán được vận hành theo quy định tài chính và được thực hiện thông qua một thiết bị di động. Thay vì thanh toán bằng tiền mặt, séc hoặc thẻ tín dụng, người tiêu dùng có thể sử dụng điện thoại di động để thanh toán cho các dịch vụ và hàng hóa. Mặc dù khái niệm sử dụng các hệ thống tiền tệ không dựa trên tiền xu có cách đây khá lâu (Hollow, Matthew, 2012) nhưng chỉ đến thế kỷ 21, công nghệ hỗ trợ các hệ thống như vậy mới được phổ biến rộng rãi.
Ở các nước đang phát triển, các giải pháp thanh toán di động đã được triển khai như một phương tiện mở rộng các dịch vụ tài chính cho cộng đồng được gọi là "không có giới hạn»hoặc không được bảo lãnh”. Thanh toán di động đang được áp dụng trên toàn thế giới theo những cách khác nhau. Hiện nay, hai hình thức phổ biến của loại hình thanh toán di động này là ví điện tử và Mobile-Money.
Thực chất ví điện tử còn được biết là loại ví số. Đây là một tài khoản điện tử online thường được xây dựng trong ứng dụng điện thoại, website máy tính. Loại ví này có vai trò thanh toán trực tuyến các khoản tiền mà không cần mang theo tiền mặt, chẳng hạn như mua sắm, thanh toán tiền điện, nước, chuyển tiền, mua hàng online (Le, 2019).
Mặt khác, có thể hiểu khái niệm ví điện tử theo một cách khách quan hơn: Ví điện tử là tổng hợp của tiền - liên kết tài khoản ngân hàng - liên kết thẻ trong ứng dụng của điện thoại. Việc sử dụng ví điện tử cần có sự liên kết tài khoản với ít nhất một tài khoản thanh toán của ngân hàng. Do đó, khả năng tiếp cận với người dùng nông thôn rất thấp, do không phải ai ở nông thôn cũng có tài khoản ngân hàng. Hơn nữa, ví điện tử đòi hỏi người dùng phải sở hữu Smartphone mới có thể cài các ứng dụng ví điện tử như Momo, ViettelPay, ZaloPay... (Trí, 2020).
Nghị định số 80/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về TTKDTM đã quy định, ví điện tử là dịch vụ cung cấp một tài khoản điện tử định danh do các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán tạo lập trên vật mang tin (như chip điện tử, sim điện thoại di động, máy tính...). Ví điện tử cho phép lưu giữ một giá trị tiền tệ được đảm bảo bằng giá trị tiền gửi, tương ứng với giá trị tài khoản thanh toán của khách hàng gửi vào tài khoản đảm bảo thanh toán của tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán theo tỷ lệ 1:1 (Đức, 2020).
Về bản chất, Mobile-Money là tiền điện tử hay ví điện tử nhưng không có liên kết tài khoản ngân hàng. Mobile-Money được hiểu là người dùng dùng thiết bị di động để chuyển tiền, thanh toán hóa đơn, mua bán hàng hóa có giá trị nhỏ trên môi trường kỹ thuật số. Mobile-Money là một phần của thanh toán điện tử, tuy nhiên nó có hai điểm khác biệt với các giao dịch thanh toán điện tử khác là nó dùng thiết bị di dộng và không cần có tài khoản ngân hàng để thực hiện các giao dịch (Minh, 2019). Khi ứng dụng vào cuộc sống, Mobile-Money sẽ giúp người dân có thể sử dụng tài khoản di động để chuyển tiền và thanh toán hàng hóa có giá trị nhỏ nhanh chóng, điều này sẽ khai thác được tối đa số lượng người dùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Việc sở hữu một chiếc điện thoại không phải là điều hiếm hoi ở các khu vực này nữa, cộng với việc nạp tiền dễ dàng nên sẽ kích cầu rất lớn trong chủ trương phát triển TTKDTM của Chính phủ (Trí, 2020).
3. Thực trạng sử dụng ví điện tử, Mobile-Money
3.1. Thực trạng tình hình TTKDTM tại một số quốc gia
Thực tế cũng đã chứng minh, nền kinh tế mạnh là một nền kinh tế luôn đi kèm với một hệ thống thanh toán hiện đại. Điều này cũng đồng nghĩa với xu thế phát triển của nghiệp vụ thanh toán trong thương mại của một nền kinh tế thị trường là TTKDTM. Hoạt động này sẽ mang lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia (Lai, 2020).
Tỷ lệ nắm giữ thẻ tín dụng của người dân tại các quốc gia phát triển là rất lớn (từ 58% đến 98%), bên cạnh đó, việc sử dụng TTKDTM trong tiêu dùng tại các quốc gia này cũng chiếm một tỷ trọng rất lớn (từ 70% đến 93%). Điều này góp một phần đáng kể trong việc thúc đẩy thương mại và kiểm soát lượng tiền trong lưu thông của các quốc gia phát triển. (Bảng 1 và Hình 1)
Bảng 1: Tỷ lệ TTKDTM tại một số quốc gia trên thế giới
Nguồn: Thời báo Tài chính, 2020
Hình 1: Biểu đồ về tỷ lệ TTKDTM
và tỷ lệ dân số sở hữu thẻ tín dụng tại một số quốc gia trên thế giới
Nguồn: Thời báo Tài chính, 2020
3.2. Thực trạng thanh toán di động tại Việt Nam
3.2.1. Các quy định về việc sử dụng phương thức thanh toán di động tại Việt Nam
Ngày 09/3/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 316/QĐ-TTg về việc phê duyệt triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ. Theo đó, nghiệp vụ nạp tiền và rút tiền được quy định như sau:
- Nạp tiền vào tài khoản Mobile-Money được thực hiện thông qua nghiệp vụ chuyển tiền từ tài khoản thanh toán của khách hàng (chủ tài khoản Mobile-Money) tại ngân hàng; nạp tiền vào tài khoản Mobile-Money từ ví điện tử của khách hàng (chủ tài khoản Mobile-Money) tại chính doanh nghiệp viễn thông cung ứng dịch vụ ví điện tử.
- Đối với nghiệp vụ rút tiền và thanh toán mua hàng hóa, phải thực hiện tài khoản Mobile-Money tại các điểm kinh doanh; rút tiền từ tài khoản Mobile-Money thông qua nghiệp vụ chuyển tiền từ tài khoản Mobile-Money sang tài khoản thanh toán của khách hàng (chủ tài khoản Mobile-Money) tại ngân hàng; rút tiền từ tài khoản Mobile-Money về ví điện tử của khách hàng (chủ tài khoản Mobile-Money) tại chính doanh nghiệp viễn thông cung ứng dịch vụ ví điện tử.
- Liên quan đến nghiệp vụ chuyển tiền, được thực hiện giữa các tài khoản Mobile-Money của khách hàng trong cùng hệ thống của doanh nghiệp viễn thông; chuyển tiền giữa tài khoản Mobile-Money của khách hàng với tài khoản thanh toán tại ngân hàng; chuyển tiền giữa tài khoản Mobile-Money với ví điện tử do chính doanh nghiệp viễn thông cung ứng. Đáng chú ý, hạn mức giao dịch tối đa 10 triệu đồng/tháng/tài khoản Mobile-Money cho tổng tất cả các giao dịch rút tiền, chuyển tiền và thanh toán.
- Mỗi khách hàng chỉ được mở 01 tài khoản Mobile-Money tại một doanh nghiệp viễn thông được phép triển khai thí điểm dịch vụ Mobile-Money. Bên cạnh đó, cấm sử dụng các kênh, hình thức khác (ngoài các kênh, hình thức nạp tiền, rút tiền đã được quy định tại các điểm trên) để nạp tiền vào/rút tiền ra từ tài khoản Mobile-Money; cấp tín dụng cho khách hàng sử dụng dịch vụ Mobile-Money, trả lãi trên số dư tài khoản Mobile-Money hoặc bất kỳ hành động nào có thể làm tăng giá trị tiền tệ trên tài khoản Mobile-Money so với giá trị tiền khách hàng đã nạp vào tài khoản. Việc sử dụng tài khoản Mobile-Money để thực hiện các giao dịch cho mục đích rửa tiền, tài trợ khủng bố, lừa đảo, gian lận; vấn đề thuê, cho thuê, mượn, cho mượn, trao đổi, cho, tặng tài khoản Mobile-Money và các hành vi vi phạm pháp luật khác cũng bị cấm.
Theo Thông tư số 23/2019/TT-NHNN ngày 22/11/2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 của Thống đốc NHNN hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán, khi sử dụng ví điện tử, khách hàng (chủ ví điện tử) phải tuân thủ các quy định sau:
- Chỉ được nạp tiền vào ví điện tử từ:
+ Tài khoản thanh toán hoặc thẻ ghi nợ của khách hàng tại ngân hàng;
+ Nhận tiền từ ví điện tử khác do cùng tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử mở.
- Mục đích sử dụng ví điện tử để:
+ Thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ hợp pháp;
+ Chuyển tiền cho ví điện tử khác do cùng tổ chức cung ứng dịch vụ ví điện tử mở;
+ Rút tiền ra khỏi ví điện tử về tài khoản thanh toán hoặc thẻ ghi nợ của khách hàng tại ngân hàng.
- Nghiêm cấm hành vi sử dụng ví điện tử để thực hiện các giao dịch cho các mục đích rửa tiền, tài trợ khủng bố, lừa đảo, gian lận và các hành vi vi phạm pháp luật khác...
- Ngoài ra, Thông tư số 23/2019/TT-NHNN cũng bổ sung quy định khi cá nhân mở ví điện tử phải cung cấp các thông tin như Căn cước công dân; CMND hoặc hộ chiếu còn thời hạn hoặc giấy khai sinh (đối với cá nhân là công dân Việt Nam chưa đủ 14 tuổi).
3.2.2. Thực trạng TTKDTM và thanh toán di động tại Việt Nam
Theo NHNN, trong 3 quý đầu năm 2021, tổng số lượng giao dịch qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng tăng 1,88% về số lượng và tăng tới 42,58% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020; thanh toán qua kênh Internet tăng tương ứng 51,16% về số lượng và 29,09% về giá trị; thanh toán qua kênh điện thoại di động tăng tương ứng 76,19% về số lượng và 88,3% về giá trị; thanh toán qua kênh QR code tăng tương ứng 64,07% về số lượng và 127,9% về giá trị. Đến cuối quý III/2021, số lượng tài khoản thanh toán của cá nhân là 110,92 triệu tài khoản, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2020.
Ngoài ra, NHNN đã cấp phép cho 43 tổ chức không phải là ngân hàng được phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. (Bảng 2)
Bảng 2: Danh sách các tổ chức không phải là ngân hàng được NHNN cấp giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (tính đến quý III/2021)
Nguồn: NHNN
Có thể thấy, Việt Nam cũng đã có những bước tiến đáng kể trong việc phát triển thị trường TTKDTM, không những đa dạng hóa các loại hình dịch vụ TTKDTM mà còn mở rộng đối tượng cung ứng ra các tổ chức phi ngân hàng. Với 43 tổ chức được cấp phép này, đã có hơn 40 ví điện tử đang vận hành và sắp tới sẽ có thêm một số loại hình thanh toán di động như Mobile-Money từ các nhà mạng viễn thông được cấp phép.
Bên cạnh những hỗ trợ từ các cơ quan quản lý Nhà nước, sự nỗ lực của các tổ chức trong việc triển khai các phương thức thanh toán di động ở Việt Nam, tình hình sử dụng phương thức này trong các giao dịch ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Đến nay, các phương thức thanh toán chủ yếu vẫn tập trung ở phương thức lệnh chi cả về số lượng giao dịch và giá trị giao dịch với hơn 83% số lượng giao dịch và hơn 91% giá trị giao dịch.
Mặc dù có nhiều ví điện tử đi vào hoạt động song, ở thị trường Việt Nam, ba trong số ví điện tử phổ biến nhất là Zalo Pay, Momo và Moca, theo nghiên cứu về nhận định và hành vi của người dùng đối với các thương hiệu ví điện tử phổ biến tại Việt Nam của công ty nghiên cứu thị trường Cimigo. Ba sản phẩm này chiếm tới hơn 90% thị trường ví điện tử tại Việt Nam. Ngoài ra, người dùng Việt Nam khá “trung thành” với ví điện tử họ đang sử dụng. Nghiên cứu của Cimigo chỉ ra 95% số người dùng Moca vẫn tiếp tục sử dụng sản phẩm khi công ty ngừng cung cấp khuyến mãi. Trong khi đó, tỷ lệ trung thành của Momo và ZaloPay cũng lên đến 89% và 84%. Các loại giao dịch phổ biến của ba loại ví này thể hiện ở Hình 2.
Hình 2: Các loại giao dịch phổ biến của ví Momo, Moca, ZaloPay
Nguồn: Cimigo
Ở Việt Nam, có thể kể đến một số ví điện tử phổ biến như Momo, AirPay, ZaloPay, ViettelPay, Moca... Ngoài ra là các ví điện tử dùng trong thanh toán quốc tế như: PayPal, WebMoney, Liqpay, AlertPay... (Bảng 3)
Bảng 3: Một số ví điện tử ở Việt Nam
Nguồn: ATPcare
4. Đánh giá chung về thực trạng triển khai và sử dụng ví điện tử, Mobile-Money tại Việt Nam
4.1. Ưu điểm
Ví điện tử mang đến cho chủ nhân sở hữu nhiều lợi ích vô cùng đặc biệt như:
- Đảm bảo sự tiện lợi cho người tiêu dùng: Hạn chế số lượng thẻ và tiền mặt; quá trình thanh toán nhanh gọn, tiện lợi và tiết kiệm tối đa thời gian chờ đợi. Hơn nữa người dùng cũng có thể hạn chế tình trạng trộm cắp tiền mặt hay khó khăn khi thanh toán.
- Cung cấp quyền truy cập cho nhiều loại thẻ khác nhau: Ví điện tử là tổ hợp lưu trữ thẻ tín dụng cũng như thẻ ghi nợ.
- Bảo mật tốt hơn: Nhập mã PIN, OTP... thực hiện xác minh qua nhà cung cấp bên thứ ba giúp cho việc bảo mật thông tin và giảm thiểu rủi ro tốt hơn.
- Dễ dàng theo dõi thói quen chi tiêu: Thông qua các báo cáo chi tiết các khoản chi tiêu cụ thể của người dùng trong ngày, tháng. Từ đó, người dùng có thể kiểm soát tài chính của mình một cách hiệu quả.
- Tận hưởng nhiều ưu đãi hấp dẫn với các phần quà ấn tượng: Khi sử dụng, người dùng có thể tận hưởng được những phần thưởng hấp dẫn từng ngày như:
+ Giảm giá cho các giao dịch như đồ ăn, nước uống,…;
+ Tặng các gói du lịch đặc biệt cho người đặc biệt;
+ Mua hàng thoải mái mà không cần phải thay đổi thói quen chi tiêu hàng ngày;
+ Sử dụng nhanh hơn, đa dạng hơn.
4.2. Khó khăn, hạn chế trong thanh toán di động ở Việt Nam
Mặc dù có được sự hỗ trợ tích cực từ các cơ quan quản lý Nhà nước, sự nỗ lực cải tiến công nghệ và tăng cường đầu tư vào hạ tầng cơ sở của các tổ chức cung cấp dịch vụ, phương thức thanh toán trực tuyến ở Việt Nam vẫn chưa phát triển như kỳ vọng, giao dịch không dùng tiền mặt trong tổng số giao dịch chưa cao. Việc mua bán, trao đổi sản phẩm, dịch vụ qua mạng khá phát triển nhưng phần lớn lại giao dịch bằng tiền mặt. Điều này được lý giải do một phần vì thói quen, phần khác vì chưa tin tưởng vào độ an toàn của giao dịch và chất lượng của hàng hóa, dịch vụ. Ngoài ra, nhận thức của người dân về những tiện ích có thể thanh toán khi không dùng tiền mặt còn hạn chế.
Việc sử dụng ví điện tử hiện nay cũng còn một số hạn chế nhất định:
- Thói quen tiêu dùng mà đa số người dân Việt Nam vẫn dùng hình thức trả tiền trực tiếp khi nhận hàng;
- Người sử dụng chưa tin tưởng vào dịch vụ do không tin tưởng vào chất lượng hàng hóa dịch vụ được giao dịch qua mạng;
- Thiếu các thông tin về các loại ví điện tử, cách thức sử dụng và những tiện ích mà ví điện tử mang lại...
Đặc biệt, vấn đề đáng quan tâm hiện nay là hành lang pháp lý cho hoạt động thanh toán qua ví điện tử vẫn chưa hoàn chỉnh. Chưa có chế tài hay bộ luật nào quy định về pháp lý của ví điện tử và những rủi ro.
4.3. Một số rủi ro khi sử dụng phương thức thanh toán di động
Hiện nay, dịch vụ ví điện tử đã xuất hiện khá nhiều tại thị trường Việt Nam. Hình thức trung gian thanh toán qua ví điện tử được xem là bước vào thời kỳ nở rộ khi các hình thức Fintech đang được quan tâm. Tuy nhiên, nhiều người vẫn thờ ơ với ứng dụng này vì trong quá trình triển khai và sử dụng, bản thân các phương tiện thanh toán di động cũng mang lại một số rủi ro nhất định.
Thứ nhất, hành lang pháp lý về ứng dụng chưa được thông qua hoàn toàn và chính thức. Hay nói cách khác, chưa có một cơ quan chức năng nào đảm bảo sự an toàn đối với tài sản của người dùng mỗi khi có tranh chấp. Hiện tại chưa có chế tài hay bộ luật nào quy định về pháp lý của ví điện tử và những rủi ro.
Thứ hai, cộng đồng liên kết ví điện tử tại Việt Nam chưa có tính hợp tác. Mặc dù có nhiều ví điện tử ra đời và thịnh hành hiện nay như Samsung Pay hay Apple Pay... tuy nhiên, chưa có sự liên kết giữa các đơn vị, dẫn đến sự hỗn loạn trong các tài khoản ví điện tử. Thực tế một người dùng có thể cùng lúc tạo tài khoản trên nhiều ví điện tử, tài khoản của khách hàng sẽ được quản lý bởi nhiều nguồn khác nhau. Vô hình trung, khi có sự cố cũng rất khó quy trách nhiệm về một bên. Ngoài ra, các ứng dụng ví điện tử còn thiếu tính cộng sinh với các ngân hàng dẫn đến việc luân chuyển dòng tiền còn hạn chế về tốc độ.
Thứ ba, rủi ro lớn nhất của ví điện tử đó là tính bảo mật. Tất nhiên các đơn vị cung cấp ứng dụng đều cố gắng thiết lập các lớp bảo vệ tối ưu nhất cho các khách hàng. Tuy nhiên những sự cố như mất điện thoại hoặc bị đánh cắp thông tin vẫn là điều khó tránh. Bản thân khách hàng cần nâng cao ý thức trong việc bảo mật này.
Ngoài ra, hầu hết mọi người vẫn còn thói quen sử dụng tiền mặt. Một điểm yếu khác từ các nhà cung cấp dịch vụ ví điện tử đó là chưa xây dựng được một hệ thống các cửa hàng, đại lý kinh doanh cung cấp sự linh động cho người có nhu cầu.
5. Khuyến nghị và kết luận
5.1. Khuyến nghị
5.1.1. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước
Để thúc đẩy và tạo môi trường thanh toán di động phát triển, an toàn, các cơ quan quản lý Nhà nước cần thực hiện một số biện pháp sau:
Thứ nhất, cần có sự hài hòa giữa các chính sách khuyến khích phát triển Fintech và chính sách quản lý, giám sát các dịch vụ tài chính hiện đại. Theo đó, bên cạnh việc khuyến khích phát triển Fintech, cần tăng cường quy định về bảo mật và minh bạch thông tin tại các định chế tài chính; phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động thanh toán, trên cơ sở đó, kiểm soát rủi ro pháp lý thích hợp và đảm bảo phù hợp với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế được các định chế tài chính, tiền tệ quốc tế khuyến nghị hoặc được áp dụng chung ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Thứ hai, NHNN cần tiếp tục chỉ đạo các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải ứng dụng các công nghệ mới, hiện đại vào các sản phẩm, dịch vụ thanh toán đảm bảo tiện ích, an toàn, bảo mật và với chi phí hợp lý nhất.
Thứ ba, cần hoàn thiện các quy định về sử dụng cũng như cung ứng các dịch vụ thanh toán di động. Thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động cung cấp các dịch vụ trung gian thanh toán của các tổ chức không phải ngân hàng. Tránh để xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, thâu tóm thị phần của các tổ chức cung cấp ví điện tử và Mobile-Money. Cần tạo lập một môi trường cạnh tranh công bằng, bảo đảm khả năng tiếp cận thị trường và tiếp cận dịch vụ đối với các chủ thể có chức năng tương tự như nhau; hình thành cơ chế bảo vệ khách hàng hữu hiệu và bảo đảm quy trình giải quyết tranh chấp hiệu quả.
5.1.2. Đối với hệ thống các NHTM và các tổ chức trung gian thanh toán
Để triển khai và vận hành tốt các phương thức thanh toán di động, các NHTM và các tổ chức thanh toán trung gian cần thực hiện các biện pháp sau:
Thứ nhất, cần tiếp tục cập nhật và áp dụng các biện pháp tiên tiến bảo đảm an ninh, an toàn cho các hệ thống thanh toán, các sản phẩm dịch vụ thanh toán; đồng thời, tăng cường sự giám sát của cơ quan quản lý, sự phối hợp giữa ngân hàng với các đơn vị liên quan trong công tác đảm bảo an ninh, an toàn.
Thứ hai, đẩy nhanh việc hiện đại hóa công nghệ và các hệ thống thanh toán, xây dựng được kết cấu hạ tầng hiện đại, cung cấp các sản phẩm dịch vụ đa dạng, ngày càng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của khách hàng, giảm chi phí vận hành, tăng cường hiệu quả quản lý và tăng hiệu quả kinh doanh.
Thứ ba, các NHTM và các tổ chức trung gian thanh toán cần tăng cường các hoạt động marketing hướng dẫn khách hàng mở tài khoản, giao dịch thanh toán qua các phương tiện điện tử với mọi khách hàng, nhất là khách hàng ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Thứ tư, chủ động liên kết với chủ ví, các tổ chức có chức năng thanh toán để thực hiện các giao dịch chuyển tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán của các khách hàng cá nhân, tập thể sang ví điện tử.
5.1.3. Đối với các tổ chức cung ứng hàng hóa, dịch vụ
Để có thể thích ứng và tận dụng được các lợi ích của thanh toán di động trong hoạt động và kinh doanh, các tổ chức cung ứng hàng hóa, dịch vụ cần thực hiện các biện pháp:
Thứ nhất, tăng cường liên kết với nhau, với trung tâm thanh toán của các tổ chức trung gian thanh toán trong việc kết nối giao dịch qua tiền ghi sổ, ví điện tử để người mua hàng có thể thanh toán qua ngân hàng.
Thứ hai, nâng cấp, số hóa và mở rộng hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, mở rộng ra toàn quốc từ việc chi tiêu Chính phủ, dịch vụ hành chính công như thuế, điện, nước, học phí và thanh toán viện phí trong khám, chữa bệnh... đều áp dụng hình thức thanh toán di động.
5.1.4. Đối với khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán di động
Để tránh những rủi ro trong quá trình sử dụng các phương thức thanh toán di động, người dùng cần thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn như sau:
Thứ nhất, giao dịch với web uy tín: Khách hàng nên kiểm tra xem trang web đó có phải là trang web được bảo mật hay không. Dấu hiệu để nhận biết một trang web được bảo mật chính là biểu tượng ổ khóa cạnh đường dẫn đến trang web trong thanh địa chỉ. Chỉ nên giao dịch ví điện tử với những trang web có uy tín.
Thứ hai, giải pháp bảo mật cao nhất: Ngoài việc cẩn trọng khi thực hiện các giao dịch ngân hàng... nên thận trọng khi sử dụng ví điện tử qua mạng Wifi công cộng; không tiết lộ thông tin tài khoản cho người lạ, việc chọn lựa các dịch vụ có các giải pháp bảo mật cao nhất cũng là điều cần chú ý.
Thứ ba, đổi mật khẩu khi cần thiết: Một điểm quan trọng nữa, khi chiếc Smartphone đang ngày càng chứa nhiều thông tin quan trọng, ngoài việc bảo mật thì ngay khi mất điện thoại, tất cả các tài khoản ngân hàng, ví điện tử hay dịch vụ tài chính khác cần được khóa lại và đổi mật khẩu ngay lập tức.
Thứ tư, tạo một mật khẩu duy nhất cho ví điện tử: Tránh sử dụng cùng một mật khẩu cho email hoặc các tài khoản mạng xã hội như Facebook, Twitter,... cho ví điện tử. Việc sử dụng cùng một mật khẩu cho tất cả các tài khoản làm tăng nguy cơ truy cập trái phép. Thay vào đó, người dùng nên sử dụng một mật khẩu duy nhất dễ nhớ, nhưng vẫn khó đoán cho ví điện tử.
5.2. Kết luận
Thanh toán di động là phương thức thanh toán mới với nhiều tiện ích cho cả nền kinh tế, các đơn vị trung gian thanh toán, các đơn vị cung cấp dịch vụ và cả người dùng. Hai hình thức nổi bật của thanh toán di động hiện nay là ví điện tử và Mobile-Money. Đã có hơn 40 tổ chức ngoài ngân hàng được NHNN cấp phép thực hiện nghiệp vụ trung gian thanh toán. Điều này làm cơ sở cho việc hình thành và phát triển đa dạng các loại hình ví điện tử và Mobile-Money ở Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế nhất định trong việc đa dạng hóa sản phẩm, đảm bảo an toàn cho người dùng... và đặc biệt là sự cạnh tranh giữa các ví điện tử với nhau có thể gây ra những rủi ro cho người dùng. Chính vì vậy, một khuôn khổ pháp lý phù hợp, đảm bảo rủi ro trong thanh toán di động là điều kiện cơ bản để có thể phát triển loại hình này trong tương lai. Bên cạnh đó, các tổ chức trung gian thanh toán, các doanh nghiệp, tổ chức cung ứng hàng hóa dịch vụ cũng cần phải cải tiến công nghệ để thích ứng với các phương thức thanh toán di động, một xu thế tất yếu trong CMCN 4.0.
Tài liệu tham khảo:
1. Alberto Chaia, et al. (2010). Half the World is Unbanked. Financial Access Initiative Research Brief.
2. Hollow, Matthew. (2012). Pre-1900 Utopian Visions of the Cashless Society. MPRA.
3. Đinh Tuấn Kiên (2013). Sự cần thiết của việc TTKDTM và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường.
4. Nguyễn Đại Lai (2020). Thực trạng, xu hướng và đề xuất phát triển phương thức TTKDTM. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ.
5. Nghị định số 80/2016/NĐ-CP ngày 01/07/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về TTKDTM.
6. Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ về các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh đại dịch Covid-19.
7. Thông tư số 23/2019/TT-NHNN ngày 22/11/2019 của Thống đốc NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014 của Thống đốc NHNN hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán.
8. Website NHNN www.sbv.gov.vn
ThS. Trương Minh Tuấn
Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh