Để phát triển kinh tế - xã hội nói chung, giảm nghèo bền vững nói riêng thì cần có vốn. Trong điều kiện vốn đầu tư của ngân sách hết sức khó khăn, vốn ODA ngày càng thu hẹp và thắt chặt thì vốn tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) có vị trí quan trọng hàng đầu đối với mỗi địa phương. Bài viết phân tích thực trạng tín dụng chính sách tại NHCSXH tỉnh Sơn La và gợi ý một số giải pháp góp phần giảm nghèo bền vững ở tỉnh Sơn La.
TS. Nguyễn Thị Kim Nhung
Thực trạng tín dụng chính sách tại NHCSXH tỉnh Sơn La
Là một địa phương thuộc trong vùng Tây Bắc, trong các năm qua, tỉnh Sơn La đã triển khai khá có hiệu quả giải pháp tín dụng ngân hàng, góp phần phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn. Hoạt động ngân hàng trên địa bàn tiếp tục được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh, như việc Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 05/KH-UBND ngày 08/01/2016 triển khai thực hiện Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn; Tỉnh ủy có nhiều văn bản lãnh đạo hệ thống ngân hàng về việc cho vay đối với lĩnh vực xây dựng nông thôn mới, kinh tế tập thể...
Về hoạt động tín dụng đối với các đối tượng chính sách xã hội ở địa phương:
Tính đến hết tháng 5/2017, tổng dư nợ cho vay các đối tượng chính sách của Chi nhánh NHCS XH tỉnh Sơn La đạt 3.333 tỷ đồng, tăng khá cao so với mức 2.763 tỷ đồng cùng thời điểm này năm 2016; trong đó: Cho vay hộ nghèo 1.610 tỷ đồng, tăng cao so với dư nợ 1.367 tỷ đồng cùng kỳ năm trước; giải quyết việc làm đạt 132 tỷ đồng, tăng nhẹ so với mức 130 tỷ đồng cùng kỳ năm 2016; xuất khẩu lao động 1,55 tỷ đồng; nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn 294 tỷ đồng, tăng mạnh so với dư nợ 235 tỷ đồng cùng kỳ năm 2017; hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn 69,5 tỷ đồng; học sinh sinh viên 26 tỷ đồng, giảm mạnh so với dư nợ 41 tỷ đồng cùng kỳ năm 2016; hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn 414,5 tỷ đồng, tăng khá so vơi mức 401 tỷ đồng cùng kỳ; hộ thương nhân vùng khó khăn 6.5 tỷ đồng; hộ nghèo về nhà ở 153 tỷ đồng; hộ cận nghèo 405,6 tỷ đồng, tăng mạnh so với dư nợ 286 tỷ đồng cùng kỳ năm 2016 (theo Quyết định 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ); cho vay hộ mới thoát nghèo theo Quyết định 28/2015/QĐ-TTg ngày 21/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ dư nợ 151,6 tỷ đồng, cũng tăng rất mạnh so với mức 84 tỷ đồng cùng kỳ năm 2016; các chương trình khác là số dư nợ còn lại.
Về hiệu quả đầu tư các chương trình tín dụng chính sách xã hội: Chỉ tính riêng trong năm 2015 số lao động được tạo việc làm là 2.990 lao động; 271 học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn; cho vay đi lao động có thời hạn ở nước ngoài được 3 lao động; trong năm cho vay xây dựng công trình nước sạch và vệ sinh môi trường được 13.367 công trình; trong đó số công trình nước sạch được xây dựng là 6.771 công trình, số công trình vệ sinh được xây dựng là 6.596 công trình.
Về đầu tư phát triển chăn nuôi trâu, bò được 13.215 con; được 387.000 con lợn nái và lợn thịt; trồng, chăm sóc cây ăn quả và cải tạo vườn tạp được 25.915 ha; đầu tư 82.115 triệu đồng chăn nuôi gia súc gia cầm; chăn nuôi thuỷ sản 67.357 triệu đồng. Số hộ vay NHCSXH còn dư nợ đến hết năm 2015 là: 117.461 hộ, bình quân dư nợ 22 triệu đồng/hộ. Số hộ thoát nghèo trong năm là 7.818 hộ. Đến hết tháng 5/2017, có tổng số 152.300 hộ còn dư nợ.
Thực hiện ủy thác qua các tổ chức chính trị xã hội:
Qua công tác kiểm tra toàn diện của 12/12 phòng giao dịch các huyện, thành phố cho thấy các tổ chức Chính trị - xã hội kiêm thành viên Ban đại diện HĐQT-NHCSXH tỉnh, huyện, đã cùng với NHCSXH từ tỉnh đến cơ sở thực hiện các nội dung trong Văn bản liên tịch và Hợp đồng uỷ thác đã ký với NHCSXH. Chỉ tính riêng trong năm 2016, đã tổ chức được 4 phiên họp giao ban Hội đoàn thể cấp tỉnh; 68 phiên họp giao ban tổ chức Hội cấp huyện, các phiên họp giao ban đã đánh giá kết quả hoạt động uỷ thác Tổ chức Hội các cấp, việc thực hiện nhiệm vụ ủy thác với NHCSXH, nhất là công tác kiểm tra giám sát.
Đề xuất giải pháp tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng NHCSXH, góp phần giảm nghèo bền vững ở tỉnh Sơn La
Một là, quan điểm về hỗ trợ nâng cao năng lực sử dụng vốn và năng lực sản xuất kinh doanh cho đồng bào dân tộc
Điều đó không có nghĩa là không chỉ có sự trợ giúp trực tiếp, như: cấp tiền, cấp gạo, cấp đồ dùng sinh hoạt khác, mà chỉ hỗ trợ giải quyết việc làm, nâng cao năng lực tính toán sử dụng đồng vốn, tính toán làm ăn, có kiến thức kinh tế thị trường trong sản xuất kinh doanh và làm dịch vụ.
Trung ương cần tiếp tục đầu tư các dự án về cơ sở hạ tầng giao thông, y tế, trường học, vệ sinh nước sạch môi trường. Các doanh nghiệp tiếp tục có những trợ giúp trực tiếp về an sinh xã hội cho người dân ở các vùng khó khăn. Song cần đặc biệt quan tâm đến giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả vốn tín dụng ngân hàng nói chung và vốn tín dụng NHCSXH nói riêng. Để mở rộng vốn tín dụng thì gắn liền với đó là đảm bảo sức hấp thụ của vốn, đảm bảo vốn sử dụng có hiệu quả. Theo đó, cần phải tiếp tục nâng cao trình độ dân trí cho người dân, đẩy mạnh hoạt động khuyến nông, phát triển giao thông, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, đảm bảo chất lượng; đổi mới kỹ thuật canh tác, hạ giá thành sản phẩm.
Hai là, về đầu tư vốn khai thác thế mạnh về cây ngô.
Sơn La là một trong những tỉnh có diện tích và sản lượng ngô vào bậc nhất của cả nước. Với tổng diện tích xấp xỉ 160.000 ha đất trồng ngô và sản lượng ngô hạt đạt 670.000 - 700.000 tấn, Sơn La xứng đáng với cái tên gọi là thủ phủ của ngô Việt Nam. Tuy nhiên sản lượng ngô này chỉ bằng dưới 10% sản lượng ngô cả nước nhập khẩu hàng năm, trong các năm 2015 - 2016 và những tháng đầu năm 2017.
Cụ thể, khối lượng ngô nhập khẩu năm 2015 của cả nước là 7,55 triệu tấn, tăng 71,2% so với năm 2014. Đây là năm thứ tư liên tiếp khối lượng ngô nhập khẩu liên tục tăng. Khối lượng nhập khẩu ngô 11 tháng đầu năm 2016 đạt 7,64 triệu tấn với giá trị đạt 1,51 tỷ USD, tăng 13,4% về khối lượng và tăng 2,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Khối lượng nhập khẩu ngô 5 tháng đầu năm 2017 đạt 3,05 triệu tấn với giá trị đạt 625 triệu USD, tăng 1,5% về khối lượng và tăng 6,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2016. Nguyên nhân khiến lượng ngô nhập khẩu tăng kỷ lục là do giá ngô thế giới giảm rất mạnh. Nếu như năm 2014, giá ngô nhập khẩu là 255 USD/tấn, năm 2015 chỉ còn 217 USD/tấn, giữa tháng 6/2017 giá ngô nhập khẩu về tới Việt Nam chỉ còn 186 - 187 USD/tấn. Đây là mức giá thấp kỷ lục kể từ năm 2007 trở lại đây. Tại các nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi, ngô nhập khẩu có giá khoảng 5.000 đồng/kg, thấp hơn nhiều so với giá ngô trong nước nhưng chất lượng lại tốt hơn.
Như vậy, phát huy thế mạnh về cây ngô trong giảm nghèo bền vững là có tính khả thi đối với Sơn La. Bởi vì, thị trường tiêu thụ ngô trong nước rất lớn và tiếp tục tăng lên. Song vấn đề đặt ra cho Sơn La là giảm giá thành sản xuất ngô. Điều này đòi hỏi một số vấn đề: có giống mới với năng suất cao và chất lượng tốt; sản xuất quy mô lớn với kỹ thật canh tác tiên tiến để hạ giá thành. Song cũng phải đảm bảo phù hơp với địa hình, phù hợp với khả năng của người dân. Tức là kết hợp sản xuât quy mô lớn của doanh nghiệp và quy mô gia đình, tạo việc làm cho người dân địa phương, khai thác các mảnh đất canh tác của các gia đình. Trong đó, vốn tín dụng NHCSXH có vai trò rất lớn để giải quyết các vấn đề này của Sơn La.
Ba là, tăng cường nguồn vốn và mở rộng cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội
Dân số của tỉnh Sơn La hiện nay khoảng trên 1,2 triệu người. Theo xác nhận đa chiều của các cơ quan và đơn vị chức năng các cấp ở địa phương, thì hiện nay, tỷ lệ hộ nghèo của Sơn La là 33,4%; hộ cận nghèo là 9,3%; như vậy, tổng số hộ thuộc diện được vay vốn tương ứng với khoảng 511.000 người. Hiện nay, nhu cầu vốn của các hộ nghèo, các hộ cận nghèo còn rất lớn. Các nhu cầu vốn giải quyết việc làm, chương trình nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn; hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn; hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn; hộ thương nhân vùng khó khăn; hộ nghèo về nhà ở; hộ cận nghèo,…là còn rất lớn cần được đáp ứng.
Vấn đề đặt ra là Ban chỉ đạo Tây Bắc, Tỉnh ủy và UBND các tỉnh trong vùng nói chung và tỉnh Sơn La nói riêng cần làm việc với Bộ Tài chính, với NHCSXH Việt Nam để được đáp ứng nhu cầu vốn cho các chi nhánh NHCSXH mở rộng cho vay các đối tượng chính sách xã hội ở địa phương, đặc biệt là vốn cho vay giải quyết việc làm, vốn cho vay sản xuất kinh doanh ở vùng đặc biệt khó khăn, vốn cho các hộ cận nghèo. Chính phủ, Bộ Tài chính, NHCS XH Việt Nam cần đảm bảo nguồn vốn để tăng trưởng dư nợ của các đôi tượng hộ nghèo và gia đình chính sách ở Sơn La cũng như ở vùng Tây Bắc có mức tăng hàng năm từ 25 - 30%.
Bốn là, triển khai đồng bộ và có hiệu quả các biện pháp hỗ trợ thu hút vốn cho vay có hiệu quả
Kèm theo việc thu hút vốn của NHCSXH thì địa phương cần tạo điều kiện cho sử dụng vốn có hiệu quả, đó là cơ sở hạ tầng, giống, các hoạt động khuyến nông khác,… Trong thực tiễn chất lượng tín dụng chính sách chưa đồng đều giữa các địa phương. Công tác phối hợp giữa các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, thông tin thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra… của các tổ chức Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp và các tổ chức chính trị - xã hội với hoạt động tín dụng chính sách của NHCSXH ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, đã ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn vay của người vay. Do đó, công tác khuyến nông, hỗ trợ lỹ thuật, cung cấp giống mới, cải tiến kỹ thuật canh tác và chăn nuôi,… có vai trò đặc biệt để mở rộng vốn cho vay và nâng cao hiệu quả vốn cho vay cũng như góp phần giảm nghèo bền vững ở tỉnh Sơn La nói riêng và cả vùng Tây Bắc nôi chung. Nhà nước, Chính quyền các cấp không làm thay thị trường, trồng cây gì, nuôi con gì là do thị trường, do người dân không thể gò ép, làm theo phong trào, không thể chủ quan duy ý chí, nhưng các cơ quan chức năng cần đảm bảo thông tin chính xác, cần đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, nâng cao trình độ dân trí và trình độ sản xuất,… cho người dân, tạo điều kiện phát huy hơn nữa vai trò hoạt động tín dụng của NHCSXH.
Tài liệu tham khảo:
- Báo cáo của NHNN tỉnh Sơn La
- Báo cáo NHCS XH tỉnh Sơn La
- Một số nguồn khác
(Tạp chí Ngân hàng số 13, tháng 7/2017)