Thực trạng tín dụng xanh trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long
18/11/2021 2.394 lượt xem
Việt Nam đã và đang phải đối mặt với nguy cơ môi trường bị phá hủy; bao gồm mất đa dạng sinh học, phá rừng, ô nhiễm không khí hoặc phát thải khí nhà kính...
Tóm tắt:
 
Việt Nam đã và đang phải đối mặt với nguy cơ môi trường bị phá hủy; bao gồm mất đa dạng sinh học, phá rừng, ô nhiễm không khí hoặc phát thải khí nhà kính. Do đó, trong những năm gần đây, những thành tựu kinh tế đang bị đe dọa do biến đổi khí hậu và có nguy cơ bị đảo ngược nếu tình huống xấu nhất xảy ra. Trong bối cảnh nhiều quốc gia trên thế giới hướng tới tăng trưởng xanh, chính sách tín dụng để phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng xanh đóng một vai trò rất quan trọng. Bài viết trình bày thực trạng triển khai hoạt động tín dụng xanh trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, từ đó, đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát triển hoạt động này trong thời gian tới.
 
Từ khóa: Ngân hàng xanh, tín dụng xanh, Vĩnh Long. 
 


Tính đến tháng 9/2021, dư nợ cho vay về nông nghiệp sạch, ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long đạt 214 tỷ đồng với nhiều mô hình kỹ thuật, trong đó có trồng dưa lưới công nghệ cao
 
1. Tổng quan về tín dụng xanh
 
Ngân hàng xanh là thuật ngữ chỉ các hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng khuyến khích các hoạt động vì môi trường và giảm phát thải carbon, chẳng hạn như khuyến khích khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ xanh.
 
Theo nghĩa rộng, ngân hàng xanh chính là ngân hàng bền vững, theo đó, một ngân hàng để phát triển bền vững thì các quyết định đầu tư cần nhìn vào bức tranh lớn và hành động một cách có lợi cho người tiêu dùng, kinh tế, xã hội và cả môi trường (Imeson và Sim, 2010). Khi đó, một mối quan hệ mật thiết giữa ngân hàng với các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường được thiết lập. Ngân hàng chỉ có thể phát triển bền vững nếu đặt các lợi ích của ngân hàng gắn liền với các lợi ích của xã hội và môi trường.
 
Việc sử dụng định nghĩa ngân hàng xanh theo nghĩa rộng phù hợp với định hướng phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam theo Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về việc phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam. 
 
Theo Pravakar và Nayak (2008); Lalon (2015), với mục tiêu thực hiện trách nhiệm xã hội bảo vệ môi trường, các ngân hàng phải tạo ra các hệ thống quản lý và cung cấp các dịch vụ ngân hàng xanh, thân thiện với môi trường như dịch vụ trực tuyến, các tài khoản thanh toán xanh, tín dụng xanh và các loại thẻ xanh. 
 
Tín dụng xanh được hiểu là những khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho các dự án không gây hại cho môi trường hoặc nhằm bảo vệ môi trường, nói cách khác là những khoản cấp tín dụng dưới dạng tài trợ vốn, cho vay, các hình thức cấp tín dụng khác mà trong đó có tính đến tác động môi trường và tăng cường bền vững môi trường.
 
Tại Việt Nam, theo Điều 149 Luật Bảo vệ môi trường số 72/2020/QH14 được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 17/11/2020, có hiệu lực từ ngày 01/01/2022 quy định về tín dụng xanh như sau: Tín dụng xanh là tín dụng được cấp cho dự án đầu tư sau đây: (i) Sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; (ii) Ứng phó với biến đổi khí hậu; (iii) Quản lý chất thải; (iv) Xử lý ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường; (v) Phục hồi hệ sinh thái tự nhiên; (vi) Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; (vii) Tạo ra lợi ích khác về môi trường.
 
Mục tiêu chung của tín dụng xanh là tiến hành thực hiện rộng rãi mô hình tài chính xanh và ngân hàng xanh, tiến tới xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế xanh thông qua việc áp dụng tiêu chuẩn về môi trường khi cấp vốn vay cho các dự án vì môi trường, giảm thiểu khí thải ô nhiễm, hướng tới một nền kinh tế carbon thấp, phát triển kinh tế bền vững. Trong đó, tín dụng xanh bao gồm: 
 
Một là, vay hỗ trợ hộ gia đình: Đây là các khoản vay lãi suất thấp, nhằm hỗ trợ cho những hộ gia đình mua các thiết bị sử dụng năng lượng mới hoặc đầu tư vào các ứng dụng sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Ngân hàng cũng có thể tham gia hỗ trợ bằng cách cung cấp các khoản vay khuyến khích hộ gia đình chuyển sang ngôi nhà mới, thân thiện với môi trường và tiết kiệm năng lượng. Một số ngân hàng xanh có thể trở thành đối tác với các công ty cung cấp thiết bị và công nghệ mới bảo vệ môi trường.
 
Hai là, vay xây dựng thương mại xanh: Các ngân hàng thương mại (NHTM) có thể cung cấp các khoản tín dụng xây dựng các trung tâm thương mại xanh với các thiết kế nhằm giảm thiểu tiêu thụ năng lượng (15 - 25%), giảm rác thải tiêu thụ và ô nhiễm môi trường so với các công trình truyền thống. Những công trình xanh này ít tiêu tốn năng lượng, ít xả thải hơn các công trình truyền thống nên chi phí hoạt động được cắt giảm, lợi nhuận tăng lên và tạo nên lợi thế khi định giá bất động sản.
 
Ba là, vay mua ô tô xanh: Ngân hàng đưa ra các gói lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường để khuyến khích khách hàng mua các ô tô có hiệu suất sử dụng nhiên liệu tiết kiệm. Các sản phẩm này có xu hướng tăng trong các năm gần đây và đặc biệt phát triển tại các nước châu Âu, châu Úc.
 
2. Thực trạng triển khai hoạt động tín dụng xanh trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long 
 
2.1. Cơ sở pháp lý và thực trạng tín dụng xanh tại Việt Nam
 
Nhận thức rõ tầm quan trọng của tín dụng xanh, ngày 25/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1393/QĐ-TTg “Phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050”; ngày 20/3/2014, Thủ tướng Chính phủ  ban hành Quyết định số 403/QÐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020; tiếp đó, ngày 24/3/2015, Thống đốc NHNN đã có Chỉ thị số 03/CT-NHNN về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; ngày 06/8/2015 Thống đốc NHNN đã có Quyết định số 1552/QÐ-NHNN ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020.
 
Để góp phần đẩy mạnh hoạt động tín dụng xanh, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 813/QĐ-NHNN ngày 24/4/2017 về chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ. Đặc biệt, Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018 của Thống đốc NHNN về việc phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam nhằm tăng cường nhận thức và trách nhiệm xã hội của hệ thống ngân hàng với việc bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, từng bước xanh hóa hoạt động ngân hàng, hướng dòng vốn tín dụng vào việc tài trợ những dự án thân thiện với môi trường.
 
Cũng trong tháng 8/2018, NHNN cũng đã phối hợp với Tổ chức tài chính quốc tế (IFC) xây dựng và ban hành “Sổ tay đánh giá rủi ro môi trường và xã hội” cho 10 ngành kinh tế trong hoạt động cấp tín dụng xanh. Theo đó, các ngành này bao gồm: Nông nghiệp, hóa chất, xây dựng và cơ sở hạ tầng, năng lượng, chế biến thực phẩm, dệt may, dầu khí, xử lý chất thải, khai thác mỏ và các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại. Sổ tay hướng dẫn này nhằm phục vụ quá trình quản lý rủi ro môi trường và xã hội của các tổ chức tín dụng (TCTD) hoạt động tại Việt Nam, giúp cán bộ tín dụng và cán bộ chuyên ngành thực hiện thẩm định dự án/phương án sản xuất - kinh doanh liên quan một cách hiệu quả, đảm bảo mục tiêu phát triển xanh và bền vững.

Ngay sau khi có những văn bản chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, các TCTD đã xây dựng quy trình thẩm định rủi ro môi trường và xã hội trong các quy định nội bộ; đồng thời, lồng ghép hoạt động tín dụng xanh trong chiến lược phát triển của ngân hàng. Một số NHTM cũng chủ động tham gia các dự án có tài trợ của các tổ chức tài chính quốc tế về bảo vệ môi trường và cấp tín dụng xanh, nhờ đó, hoạt động tín dụng xanh đã có những chuyển biến tích cực.
 
Dư nợ tín dụng xanh đã tăng từ hơn 71,02 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2015 lên mức hơn 237,90 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2018, tương ứng tăng 234,57% trong ba năm, trung bình tăng 54,40%/năm, tăng gần ba lần mức tăng trưởng tín dụng bình quân trong giai đoạn này (Ngô Anh Phương, 2021). 
 
Theo thống kê của NHNN, đến hết tháng 6/2019, dư nợ tín dụng đối với các dự án xanh đạt khoảng 317.600 tỷ đồng. Trong đó, dư nợ trung dài hạn chiếm 76% dư nợ tín dụng xanh, lãi suất cho vay các lĩnh vực xanh ngắn hạn là 5 - 8%/năm, trung và dài hạn là 9 - 12%/năm. Tỷ trọng tín dụng xanh cũng tăng mạnh trong giai đoạn từ tháng 9/2016 đến tháng 6/2020, từ 1,5% - 4,1% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Nếu so sánh với nhu cầu 30,6 tỷ USD tài chính xanh đến năm 2020, thì đây là nguồn vốn trong nước đáng kể cho tăng trưởng xanh của Việt Nam (Bùi Thị Hoàng Lan, 2020). Hơn nữa, việc xanh hóa đáng kể dòng tín dụng sẽ góp phần quyết định tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Dư nợ tín dụng xanh chủ yếu tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp sạch, chiếm 45% tổng dư nợ tín dụng xanh; năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm 17%; quản lý nước bền vững tại khu vực đô thị và nông thôn chiếm 11% và lâm nghiệp bền vững chiếm 5%.
 
Theo báo cáo của Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) về tình hình triển khai phát triển ngân hàng xanh đến năm 2020, tín dụng xanh tại các NHTM được thực hiện dưới nhiều hình thức. Phần lớn các ngân hàng (khoảng gần 80% TCTD báo cáo) lồng ghép các quy định, văn bản chỉ đạo điều hành trong hoạt động ngân hàng. Khoảng 50% tổng số ngân hàng báo cáo đã nghiên cứu xây dựng quy định hướng dẫn đánh giá rủi ro môi trường và xã hội.
 
Trong những năm qua, chương trình tín dụng xanh đã được lồng ghép trong một số văn bản pháp luật như: Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động cho vay của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng; Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn và Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ nhằm ứng dụng công nghệ cao vào phát triển nông nghiệp, nông thôn; Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng đến năm 2025 định hướng đến năm 2030 cũng khuyến khích các NHTM tập trung nguồn lực cho tín dụng xanh, cấp tín dụng cho các dự án, phương án sản xuất - kinh doanh thân thiện với môi trường, xã hội... Theo thống kê, dư nợ tín dụng xanh đã tăng từ hơn 71.000 tỷ đồng lên 340.000 tỷ đồng trong giai đoạn 2015 - 2020. Tốc độ tăng trưởng tín dụng xanh ở mức cao, với tốc độ tăng trưởng đạt cao nhất vào năm 2017. Tỷ trọng tín dụng xanh so với tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế tăng đều từ 1,55% năm 2015 lên 3,7% năm 2020. Dư nợ cấp tín dụng đối với các dự án xanh tính đến hết quý I/2021 là khoảng 335.000 tỷ đồng, chiếm 3,6% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, chủ yếu tập trung ở lĩnh vực nông nghiệp xanh (hơn 39%) và năng lượng tái tạo (37%). Dư nợ tín dụng đã được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội là 1.312.659 tỷ đồng, chiếm khoảng 14,17% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Một số NHTM Việt Nam có tỷ trọng tín dụng xanh cao như: Agribank, BIDV, Sacombank, TPBank, Vietinbank, VPBank, Nam Á Bank, HDBank....
 
2.2. Thực trạng hoạt động tín dụng xanh trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long 
 
Trong những năm gần đây, từ thành công của việc thực hiện cánh đồng mẫu lớn trên cây lúa, ngành Nông nghiệp tỉnh Vĩnh Long đã thực hiện thí điểm thành công mô hình cánh đồng mẫu lớn trên các loại cây trồng khác như cánh đồng mẫu lớn khoai lang ở huyện Bình Tân, cánh đồng mẫu lớn khoai mỡ ở huyện Mang Thít. Theo đó, diện tích trồng lúa sẽ giảm dần để chuyển sang trồng các loại rau màu có hiệu quả kinh tế cao, trồng cây ăn trái, từng bước tăng diện tích nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi.
 
Bên cạnh đó, chủ trương của tỉnh Vĩnh Long là đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp theo chiều sâu và khép kín bằng cách nâng cao chất lượng, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, đủ điều kiện tham gia chuỗi giá trị, có khả năng cạnh tranh với nông sản cùng loại ở thị trường trong nước và xuất khẩu. Từ đó, thí điểm xây dựng mô hình một số vùng sản xuất nông nghiệp sạch và nông nghiệp công nghệ cao. 
 
Theo Sở Nông nghiệp - Phát triển nông thôn tỉnh Vĩnh Long, các mô hình nông nghiệp, sản xuất theo hướng GAP và ứng dụng kỹ thuật công nghệ cao trên địa bàn tỉnh đang phát triển khá mạnh, trong đó, có nhiều mô hình mang tính đột phá, đặc biệt là mô hình trồng hoa, cây cảnh trong chậu và trên đất. Cụ thể, các mô hình sản xuất - kinh doanh hiệu quả có tác động lan tỏa và có thể nhân rộng như mô hình hoa kiểng, trồng rau sạch tại hộ gia đình, sản xuất nấm ăn, nuôi chim bồ câu, nuôi gà theo hướng an toàn sinh học, nuôi ếch (ếch giống, ếch thịt). Trong đó, mô hình trồng hoa lan, cúc, đồng tiền cắt cành tại Thành phố Vĩnh Long có tỷ lệ hoa thương phẩm cao, mang lợi nhuận khá, góp phần cung ứng sản phẩm hoa tại chỗ, tăng khả năng cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại từ các địa phương khác. Mô hình trồng rau sạch tại hộ gia đình đã cung cấp lượng rau, nấm sạch cho nhu cầu gia đình và từng bước mở rộng thị trường tiêu thụ. Ngoài ra, các vườn cây ăn trái kém hiệu quả, bị ảnh hưởng dịch bệnh đã được cải tạo, chuyển đổi sang các loại cây có khả năng kháng bệnh, có giá trị kinh tế cao như nhãn Idor, nhãn Thạch Kiệt, bưởi, chanh…
 
Đối với lĩnh vực phát triển sản phẩm nông nghiệp sạch, năm 2020, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long có 29 cơ sở được chứng nhận đạt tiêu chuẩn GAP và tương đương, 50 sản phẩm OCOP, 11 hợp tác xã và cơ sở sản xuất được cấp QR Code. Theo báo cáo hoạt động của các chi nhánh TCTD trên địa bàn, năm 2020, dư nợ đối với dự án nông nghiệp sạch là 209 tỷ đồng, tăng 91 tỷ đồng so với năm 2018 (năm ban hành Quyết định số 1604/QĐ-NHNN). Tính đến tháng 9/2021, dư nợ cho vay về nông nghiệp sạch, ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long đạt 214 tỷ đồng với các mô hình như trồng dưa lưới, cà chua bi, dưa leo, nấm bào ngư theo tiêu chuẩn VietGAP, trồng cà chua đen theo công nghệ tưới nhỏ giọt của Israel, mô hình trồng hoa, cây cảnh trong chậu và trên đất theo hướng GAP và ứng dụng kỹ thuật công nghệ cao, mô hình nuôi trùn quế kết hợp chăn nuôi bò tạo nguồn phân bón hữu cơ cho nông nghiệp sạch…
 
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, các NHTM trên địa bàn vẫn còn gặp một số khó khăn nhất định.
 
Thứ nhất, về hướng dẫn thẩm định dự án. Danh mục các ngành, lĩnh vực xanh chưa có các tiêu chí cụ thể để các ngân hàng có căn cứ lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh. Hiện vẫn thiếu khung khổ pháp lý, tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá công cụ đo lường tác động đến môi trường để hỗ trợ xây dựng chính sách, sản phẩm phát triển tín dụng xanh. Đó là chưa kể các doanh nghiệp thiếu thông tin về các sản phẩm tín dụng xanh. Thời gian xin cấp tín dụng xanh dài, thủ tục vay vốn phức tạp. Doanh nghiệp cũng thiếu tài sản đảm bảo do hầu hết có quy mô vừa và nhỏ.
 
Thứ hai, về thời gian, chi phí đầu tư. Việc đầu tư vào các ngành, lĩnh vực xanh, nhất là lĩnh vực năng lượng tái tạo, tiết kiệm và hiệu quả năng lượng hiện nay tại Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long nói riêng đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, rủi ro thị trường cao nên rất cần các ưu đãi về thời hạn và chi phí vốn vay. Trong khi đó, nguồn vốn huy động của các TCTD thường là ngắn hạn, huy động theo chi phí vốn thương mại trên thị trường nên có chi phí cao. 
 
Thứ ba, về nguồn nhân lực. Đội ngũ nhân viên ngân hàng chưa được đào tạo chuyên sâu, bài bản trong thẩm định, đánh giá và quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng xanh nên có thể xảy ra dẫn đến việc ra quyết định tín dụng cho các dự án gây ảnh hưởng, thậm chí gây ô nhiễm nghiêm trọng đến môi trường, xã hội.
 
Thứ tư, về những khó khăn của nông hộ trên địa bàn. Theo đánh giá của Sở Nông nghiệp - Phát triển nông thôn tỉnh Vĩnh Long, việc sản xuất nông nghiệp công nghệ cao của tỉnh thời gian qua mới chỉ áp dụng thử nghiệm trên quy mô nông hộ, chưa thể làm đại trà quy mô lớn. Đó là chưa kể, ý thức của người dân, công nghệ và cách tiếp thị công nghệ vẫn là những rào cản chính khiến nền nông nghiệp “chưa sạch” như mong đợi. Nguyên nhân là do sản xuất còn manh mún nên khó đưa khoa học - kỹ thuật, công nghệ cao vào sản xuất. Trình độ và khả năng tiếp cận ứng dụng khoa học công nghệ của người dân còn hạn chế cũng như khả năng chuyển giao của cán bộ kỹ thuật trong ngành còn thấp. Ngoài ra, hiện tại tỉnh Vĩnh Long vẫn chưa hình thành được mối liên kết sản xuất - tiêu thụ, trong khi thị trường tiêu thụ sản phẩm ứng dụng công nghệ cao chưa nhiều, giá cả chưa có sự khác biệt với các sản phẩm thông thường nên chưa khuyến khích được người dân đầu tư sản xuất.
 
3. Một số khuyến nghị 
 
Trong giai đoạn nền kinh tế chuyển đổi mô hình tăng trưởng, phù hợp với chiến lược tăng trưởng xanh, việc phát triển mô hình tín dụng xanh là tất yếu. Để triển khai thực hiện mô hình tín dụng xanh không chỉ cần sự chỉ đạo từ NHNN mà quan trọng hơn là chính các NHTM, nhận thấy được tầm quan trọng của mô hình này đối với sự phát triển bền vững của ngân hàng cũng như của toàn xã hội. Bài viết đề xuất một số khuyến nghị góp phần phát triển hoạt động tín dụng xanh trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long trong thời gian tới như sau:
 
Thứ nhất, NHNN tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý hướng dẫn thực hiện tín dụng xanh cho các TCTD, trong đó đưa ra khái niệm, các tiêu chuẩn về tín dụng xanh, danh mục các ngành, lĩnh vực xanh để áp dụng chung, thống nhất, làm cơ sở để các tổ chức tín dụng lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát trong quá trình thực hiện. Đồng thời, quy định về phòng ngừa rủi ro trong các dự án cấp tín dụng xanh. Hầu hết, các dự án kinh tế xanh cần nguồn vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu đồng thời, các dự án này cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro. Do đó, nghiên cứu bổ sung các quy định về dự phòng rủi ro khi các TCTD cấp tín dụng cho các dự án đầu tư kinh doanh xanh, thân thiện với môi trường.
 
Thứ hai, các ngân hàng trên địa bàn tiếp tục huy động các nguồn lực để thực hiện chính sách tín dụng xanh, bao gồm: Nguồn Ngân sách Nhà nước, tranh thủ các nguồn vốn ưu đãi dài hạn từ các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng thế giới, Công ty tài chính quốc tế... giúp các doanh nghiệp, hộ sản xuất tiếp cận nguồn tín dụng xanh.
 
Thứ ba, tăng cường nâng cao chất lượng của đội ngũ nhân viên ngân hàng. Các NHTM trên địa bàn cần cử nhân viên tham dự các khóa đào tạo, tập huấn, hội thảo về chủ đề ngân hàng xanh, tín dụng xanh, phát triển bền vững, đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động tín dụng. 
 
Thứ tư, tăng cường quảng bá, tuyên truyền cho khách hàng về lợi ích của tín dụng xanh. Một số khách hàng nhận biết khái niệm tín dụng xanh nhưng sử dụng chưa nhiều; thậm chí, có nhiều khách hàng chưa biết đến thuật ngữ này. Vì thế, các ngân hàng cần có các hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn khách hàng thông qua việc tổ chức hội thảo về chủ đề tín dụng xanh, các video ngắn giới thiệu về tín dụng xanh. 
 
Thứ năm, các doanh nghiệp, hộ sản xuất trên địa bàn cần đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng công nghệ xanh, nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao; đồng thời, công bố các báo cáo trách nhiệm xã hội. Các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất cần tự nâng cao nhận thức về các vấn đề xã hội, môi trường, ý thức được tầm quan trọng của việc cung cấp các sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường, có lợi cho người tiêu dùng. Bên cạnh đó, khi vay tín dụng xanh từ các ngân hàng, các doanh nghiệp cần tìm hiểu chính sách ưu đãi, hỗ trợ về lãi suất, thủ tục vay vốn, tài sản đảm bảo để tăng cường đầu tư vào dự án thân thiện với môi trường.
 
4. Kết luận
 
Tín dụng xanh là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển an toàn, bền vững của cả hệ thống ngân hàng nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung. Việc triển khai và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng xanh không chỉ là trách nhiệm của NHTM mà cần sự quan tâm, định hướng chỉ đạo của Chính phủ, NHNN và các cơ quan quản lý khác cũng như sự phối hợp từ người dân và chính quyền địa phương, đặc biệt là khách hàng vay vốn thực hiện dự án xanh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
 
1. Anh Phương, (2021). Thách thức phát triển ngân hàng xanh, https://tapchitaichinh.vn/ngan-hang/thach-thuc-phat-trien-ngan-hang-xanh-330054.html
 
2. Bùi Thị Hoàng Lan (2020). Phát triển tín dụng xanh trong bối cảnh hiện nay. Tạp chí Tài chính, Kỳ 2 - Tháng 10/2020.
 
3. Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 của Thống đốc NHNN về việc thúc đẩy tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. 
 
4. Ngô Anh Phương, (2021). Ngân hàng xanh tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp phát triển, https://thitruongtaichinhtiente.vn/ngan-hang-xanh-tai-viet-nam-thuc-trang-va-giai-phap-phat-trien-34183.html
 
5. Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.
 
6. Quyết định số 1552/QĐ-NHNN ngày 06/8/2015 của Thống đốc NHNN ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020; Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018 của Thống đốc NHNN về việc phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam.
 
7. Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018 của Thống đốc NHNN về việc phê duyệt đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam. 
 
8. Lalon, R. M. (2015). Green banking: Going green. International Journal of Economics, Finance and Management Sciences, 3(1), 34–42.


ThS. Nguyễn Thị Ánh Ngọc (Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh - Phân hiệu Vĩnh Long)
 
ThS. Nguyễn Thị Cẩm Nhung (Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Vĩnh Long)
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Tác động của tái định vị thương hiệu đến hiệu quả kinh doanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tác động của tái định vị thương hiệu đến hiệu quả kinh doanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
16/05/2023 199 lượt xem
Tái định vị thương hiệu là xu hướng marketing đi cùng sự phát triển của doanh nghiệp, sự thay đổi và phát triển về nhu cầu của khách hàng mục tiêu, của thị trường và của môi trường kinh doanh. Tái định vị thương hiệu ngân hàng giúp các ngân hàng có được vị trí trong tâm trí và trái tim khách hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị phần và gia tăng hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Nghiên cứu thực nghiệm về ý định chấp nhận tiền điện tử của thế hệ Z bằng việc vận dụng lí thuyết về hành vi có kế hoạch
Nghiên cứu thực nghiệm về ý định chấp nhận tiền điện tử của thế hệ Z bằng việc vận dụng lí thuyết về hành vi có kế hoạch
12/05/2023 1.145 lượt xem
Nghiên cứu này nhằm mục đích khám phá ý định hành vi của thế hệ Z (thế hệ sinh ra từ năm 1997 đến năm 2012) đối với việc chấp nhận tiền điện tử. Bằng việc vận dụng lí thuyết về hành vi có kế hoạch để thực hiện phân tích ý định hành vi chấp nhận tiền điện tử, nghiên cứu sử dụng phương pháp bình phương bé nhất riêng phần (PLS) với cách tiếp cận để phân tích mẫu 230 người thuộc thế hệ Z.
Giảm tốc kinh tế thế giới và nhân tố tác động
Giảm tốc kinh tế thế giới và nhân tố tác động
10/05/2023 289 lượt xem
Năm 2022, kinh tế thế giới giảm tốc do bất ổn địa chính trị, lạm phát ở mức cao và làn sóng tăng lãi suất của các ngân hàng trung ương. Trong quý I và dự báo triển vọng kinh tế thế giới năm 2023 tiếp tục chứng kiến biến động ở nhiều khu vực bởi những “tàn dư” của đại dịch Covid-19, áp lực lạm phát, khủng hoảng năng lượng do hậu quả của xung đột Nga - Ukraine và lãi suất tăng cao tiếp tục đẩy kinh tế thế giới suy giảm mạnh.
Trí tuệ nhân tạo thúc đẩy hoạt động bán hàng trả góp
Trí tuệ nhân tạo thúc đẩy hoạt động bán hàng trả góp
08/05/2023 231 lượt xem
Trí tuệ nhân tạo đã và đang góp phần quan trọng trong việc thay đổi toàn diện hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống con người. Hiểu và áp dụng đúng trí tuệ nhân tạo sẽ đem lại những tiện ích, rút ngắn thời gian nghiệp vụ, loại bỏ những thủ tục rườm rà...
Quyết định tài trợ tín dụng xanh cho bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu: Nghiên cứu các nhân tố và khuyến nghị
Quyết định tài trợ tín dụng xanh cho bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu: Nghiên cứu các nhân tố và khuyến nghị
05/05/2023 238 lượt xem
Sự phát triển của tín dụng xanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau và các yếu tố tác động đến sự phát triển của tín dụng xanh theo những cách khác nhau, tùy thuộc vào bối cảnh của mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn phát triển, sự phát triển của nền kinh tế và thị trường tài chính.
Rủi ro tín dụng và các mô hình quản lí rủi ro tín dụng tại Việt Nam
Rủi ro tín dụng và các mô hình quản lí rủi ro tín dụng tại Việt Nam
04/05/2023 579 lượt xem
Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường.
 Kinh tế toàn cầu tác động và ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế trong nước
Kinh tế toàn cầu tác động và ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế trong nước
29/04/2023 488 lượt xem
Trong 4 tháng đầu năm 2023, hầu hết các nền kinh tế phát triển đều tăng trưởng chậm lại; trong đó, GDP quý I/2023 của Mỹ dự báo chỉ tăng khoảng 1% và khu vực châu Âu tăng 0,1% so với cùng kì năm 2022...
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với hệ thống chuỗi cung ứng
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với hệ thống chuỗi cung ứng
26/04/2023 376 lượt xem
Một trong những thách thức lớn nhất mà các công ty sản xuất phải đối mặt hiện nay là sự gia tăng đáng kể các vấn đề về chuỗi cung ứng. Thật không may, cách tiếp cận truyền thống không thể phù hợp với sự đa dạng của những vấn đề phức tạp này. Sự ra đời các công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) giúp liên kết các hoạt động thông minh với thiết kế và quy trình chuỗi cung ứng để cứu vãn một số thiếu hụt hoạt động trong chuỗi cung ứng.
Các nhân tố phía cầu tác động đến tài chính toàn diện tại Việt Nam
Các nhân tố phía cầu tác động đến tài chính toàn diện tại Việt Nam
12/04/2023 768 lượt xem
Tài chính toàn diện ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong phát triển, ổn định kinh tế của mỗi quốc gia, do đó, việc nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng tới tài chính toàn diện tại Việt Nam có ý nghĩa về mặt lí luận và thực tiễn. Kết quả mô hình các nhân tố tác động tới tài chính toàn diện tại Việt Nam chỉ ra rằng: Giới tính có tác động ngược chiều tới việc sở hữu tài khoản, sử dụng các dịch vụ tiết kiệm, sử dụng thẻ ATM, sử dụng thẻ tín dụng, sử dụng dịch vụ bảo hiểm, đầu tư.
Ảnh hưởng của kiến thức và sự tự tin đến hành vi ra quyết định của khách hàng trong sử dụng dịch vụ tài chính
Ảnh hưởng của kiến thức và sự tự tin đến hành vi ra quyết định của khách hàng trong sử dụng dịch vụ tài chính
06/04/2023 644 lượt xem
Kiến thức tài chính của khách hàng là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hành vi của khách hàng trong sử dụng dịch vụ tài chính. Kiến thức này bao gồm hai loại: Kiến thức chủ quan và kiến thức khách quan. Hai loại kiến thức này hình thành nên sự tự tin thái quá hoặc kém tự tin của khách hàng. Khi khách hàng quá tự tin hay kém tự tin sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả ra quyết định của khách hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường và hàm ý cho Việt Nam
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường và hàm ý cho Việt Nam
25/03/2023 1.041 lượt xem
Công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường (BVMT) bao gồm thuế, phí, lệ phí, đặt cọc, kí quỹ, quỹ BVMT, trợ cấp môi trường... Không giống như công cụ hành chính mang tính chất mệnh lệnh, công cụ kinh tế mang tính mềm dẻo, linh hoạt, khiến cho người gây ô nhiễm và người hưởng thụ môi trường có các hành vi xử sự có lợi cho môi trường.
Tác động của quản lí rủi ro tín dụng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tác động của quản lí rủi ro tín dụng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam
20/03/2023 991 lượt xem
Quản lí rủi ro tín dụng hiệu quả đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe của các ngân hàng vì nó có thể phá hủy hoặc đảm bảo khả năng duy trì và tăng trưởng của ngân hàng. Bài viết nghiên cứu tác động của quản lí rủi ro tín dụng, được đo lường bằng tỉ lệ nợ xấu, tỉ lệ an toàn vốn, tỉ lệ chi phí, tỉ lệ thanh khoản, tỉ lệ cho vay trên tiền gửi đối với khả năng sinh lời, được đo lường bằng tỉ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam.
Vai trò của tài chính số trong ổn định hệ thống tài chính
Vai trò của tài chính số trong ổn định hệ thống tài chính
16/03/2023 1.161 lượt xem
Trên thế giới và ở Việt Nam, tài chính số đang ở trong giai đoạn phát triển bùng nổ với nhiều loại hình dịch vụ đa dạng. Qua nhiều nghiên cứu và kiểm nghiệm thực tế cho thấy, phát triển tài chính số cải thiện sự ổn định của hệ thống tài chính thông qua việc tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng và hạn chế tỉ lệ lạm phát.
Kiểm soát hành vi “Tẩy xanh” - Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính xanh
Kiểm soát hành vi “Tẩy xanh” - Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính xanh
15/03/2023 681 lượt xem
Thực tế cho thấy, nhiều doanh nghiệp đã và đang tìm cách xây dựng hình ảnh, thương hiệu gần gũi và thân thiện với môi trường. Trong các doanh nghiệp này, có những doanh nghiệp thực sự có những biện pháp tích cực để bảo vệ môi trường, tuy nhiên, có những doanh nghiệp cố tình lừa dối khách hàng và các tổ chức có liên quan để xây dựng hình ảnh “xanh” cho doanh nghiệp.
Sử dụng công cụ đánh giá rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Sử dụng công cụ đánh giá rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
13/03/2023 1.861 lượt xem
Bài viết phân tích thực trạng sử dụng công cụ đánh giá rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam. Với dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua khảo sát 189 cán bộ thẩm định tín dụng và phỏng vấn sâu 11 chuyên gia là lãnh đạo của các NHTM Việt Nam, bằng việc sử dụng phương pháp thống kê mô tả dựa trên kĩ thuật phân tích thống kê so sánh.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

66.450

67.070

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

66.450

67.050

Vàng SJC 5c

66.450

67.070

Vàng nhẫn 9999

55.750

56.700

Vàng nữ trang 9999

55.600

56.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 23,270 23,640 24,575 25,951 28,261 29,466 163.78 173.39
BIDV 23,320 23,620 24,752 25,940 28,372 29,619 164.31 173.07
VietinBank 23,235 23,655 24,821 25,956 28,606 29,616 164.85 172.8
Agribank 23,270 23,635 24,830 25,832 28,510 29,336 165.92 172.71
Eximbank 23,250 23,630 24,854 25,531 28,548 29,326 165.67 170.18
ACB 23,200 23,700 24,861 25,488 28,689 29,295 165.51 169.86
Sacombank 23,280 23,685 25,018 25,532 28,788 29,304 166.23 171.78
Techcombank 23,310 23,655 24,609 25,935 28,217 29,502 161.45 173.73
LPBank 23,300 23,900 24,794 26,122 28,725 29,665 164.18 175.63
DongA Bank 23,330 23,660 24,880 25,550 28,610 29,320 163.5 170.7
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,20
BIDV
0,10
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,90
7,20
7,20
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,20
Cake by VPBank
1,00
-
-
-
6,00
-
6,00
8,90
-
9,00
9,00
ACB
-
0,50
0,50
0,50
4,60
4,70
4,80
6,40
6,60
6,80
6,90
Sacombank
-
-
-
-
5,30
5,40
5,50
7,30
7,40
7,60
7,90
Techcombank
0,10
-
-
-
5,40
5,40
5,40
7,10
7,10
7,10
7,10
LPBank
-
0,20
0,20
0,20
5,00
5,00
5,00
7,30
7,30
7,70
8,00
DongA Bank
1,00
1,00
1,00
1,00
5,50
5,50
5,50
7,90
7,95
8,00
8,30
Agribank
0,30
-
-
-
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,00
Eximbank
0,20
0,50
0,50
0,50
5,50
5,50
5,50
6,30
6,60
7,10
7,50

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?