Sức sống và triển vọng kinh tế Việt Nam 2022
27/04/2022 2.475 lượt xem

1. Mục tiêu và dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình, Việt Nam đặt mục tiêu phục hồi, phát triển nhanh hoạt động sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy các động lực tăng trưởng, ưu tiên một số ngành, lĩnh vực quan trọng, phấn đấu đạt mục tiêu của giai đoạn 2021 - 2025: Tăng trưởng GDP bình quân 6,5 - 7%/năm, chỉ tiêu nợ công dưới mức cảnh báo Quốc hội cho phép tại Nghị quyết số 23/2021/QH15, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn trong trung hạn và dài hạn; tiết giảm chi phí, hỗ trợ dòng tiền, bảo đảm tính chủ động, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và người dân; phòng, chống dịch Covid-19 hiệu quả; bảo đảm an sinh xã hội và đời sống của người dân, nhất là người lao động, người nghèo, người yếu thế, đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Theo Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025, Việt Nam phấn đấu đến năm 2025 đạt mục tiêu:

- Cả nước có khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp (khoảng 60.000 đến 70.000 doanh nghiệp quy mô vừa và lớn); tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP khoảng 55%; số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 15%/năm giai đoạn 2021 - 2025; có khoảng 35.000 hợp tác xã (trên 3.000 hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và tiêu thụ nông sản), khoảng 50% hợp tác xã nông nghiệp liên kết với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị; tối thiểu có 5 - 10 sản phẩm quốc gia xây dựng được thương hiệu quốc tế.

- Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân trên 6,5%/năm, trong đó tốc độ tăng năng suất lao động ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 6,5 - 7%/năm, tốc độ tăng năng suất lao động của các vùng kinh tế trọng điểm và 05 thành phố trực thuộc trung ương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động trung bình cả nước. Đến năm 2025, thu hẹp khoảng cách về năng lực cạnh tranh quốc gia với các nước trong nhóm ASEAN-4, đặc biệt đối với các chỉ số về thể chế, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực.

- Tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà nước giai đoạn 2021 - 2025 bình quân 3,7% GDP. Giảm tối thiểu 10% tổng số đơn vị sự nghiệp công lập so với năm 2021, có tối thiểu 20% đơn vị tự chủ tài chính. Quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt tối thiểu 85% GDP, dư nợ thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 47% GDP, dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt khoảng 20% GDP. Tỷ trọng chi cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt không dưới 1% GDP.

Theo Báo cáo hàng năm "Triển vọng kinh tế khu vực ASEAN+3 năm 2022" công bố ngày 12/4/2022, Văn phòng Nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN+3 (AMRO) dự báo: Năm 2022, Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng 6,5% GDP và lạm phát 3,4% (còn năm 2023 các con số sẽ tương ứng là 7% và 3%). Tăng trưởng GDP của ASEAN+3 (gồm các nước ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) năm 2022 đạt 4,7% và đạt mức 4,6% vào năm 2023. Trong đó, mức tăng trưởng của ASEAN năm 2022 là 5,1% và 5,2% vào năm 2023.

Ước tính và dự báo tăng trưởng GDP của ASEAN+3 năm 2022 - 2023
 
 
                                                                                                                                                                               Nguồn: AMRO

Báo cáo Triển vọng Phát triển châu Á 2022 được Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) công bố ngày 06/4/2022 dự báo, trong năm 2022, kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi ở mức 6,5% và đạt mức 6,7% trong năm 2023; xuất khẩu hàng hóa sẽ tăng 8 - 10%; nhập khẩu sẽ tăng do nhu cầu về tư liệu sản xuất và đầu vào cho công nghiệp chế biến, chế tạo tăng lên và tiêu dùng trong nước phục hồi trở lại; thặng dư tài khoản vãng lai ở mức 1,5% GDP (và 2,0% GDP vào năm 2023); tăng trưởng công nghiệp khoảng 9,5%​; sản lượng nông nghiệp tăng 3,5%; ngành dịch vụ tăng 5,5%; lạm phát 3,8% (và 4,0% vào năm 2023).

Còn trong Báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương kỳ tháng 4/2022 với chủ đề "Đương đầu bão tố", Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo kinh tế Việt Nam đang phục hồi và sẽ tăng trưởng 5,3% trong năm 2022 (giảm so với mức 6,5% theo dự báo WB đưa ra trong tháng 10/2021). Thậm chí, GDP có thể chỉ tăng 4% trong kịch bản xấu (nếu giá dầu mỏ và nguyên vật liệu kim loại có xu hướng tăng cao) và phục hồi lại mức tăng 6% và 6,5% lần lượt vào các năm 2023 và 2024.  

Trước đó, ngày 28/3/2022, tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Fitch Ratings dự báo tăng trưởng của Việt Nam sẽ phục hồi lên mức 6,1% vào năm 2022 và 6,3% vào năm 2023. Fitch Ratings cũng công bố xếp hạng mặc định của nhà phát hành ngoại tệ dài hạn của Việt Nam ở mức "BB" với Triển vọng tích cực.

Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo Việt Nam sẽ tăng trưởng 6% năm 2022 và 7,2% vào năm 2023. Lạm phát được dự báo tăng lên mức 3,9% vào cuối năm 2022.

Nhiều ước tính lạc quan hơn cho rằng GDP Việt Nam sẽ tăng mạnh từ mức 2,9% năm 2021 lên 7 - 7,5% vào năm 2022; tổng mức bán lẻ (loại trừ yếu tố giá) sẽ tăng 5% trong 2022. Lợi nhuận của các ngân hàng cũng sẽ tiếp tục tăng nhờ vào mục tiêu tăng trưởng tín dụng 14% và đa phần tài sản bảo đảm là bất động sản tiếp tục tăng giá trong thời gian 2020 - 2022; cơ cấu khoản vay được cải thiện và chi phí huy động vốn thấp. Thậm chí, Capital Economics (Công ty tư vấn nghiên cứu kinh tế có trụ sở ở London) dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục phục hồi và GDP sẽ tăng trưởng 8,8% trong năm 2022, cao hơn so với mục tiêu kế hoạch chỉ là 6,0-6,5% và so với mức 2,58% của năm 2021.

2. Nền tảng và giải pháp tăng trưởng bền vững ở Việt Nam
 
Sự hội tụ cảm hứng trạng thái lạc quan về sức sống, sự phục hồi và triển vọng tích cực của kinh tế Việt Nam là điểm chung của các dự báo quốc tế khác nhau và chúng cơ bản dựa trên cơ sở thực tế tin cậy, mà nổi bật là:

Thứ nhất, Việt Nam sớm quyết đoán từng bước mở cửa, nới lỏng các kiểm soát dịch bệnh, thích ứng linh hoạt, an toàn với dịch  bệnh, sớm khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế quay trở lại với cuộc sống bình thường mới. Quyết định này được khởi đầu từ cuối quý IV/2021 trên cơ sở nỗ lực của Chính phủ đã triển khai thành công chiến dịch ngoại giao vắc-xin và tiêm chủng toàn quốc, từ đó đưa Việt Nam trở hành một trong 6 nước có tỷ lệ bao phủ vắc-xin cao nhất thế giới, với trên 78% dân số đã được tiêm đủ liều vắc-xin ngừa Covid-19. Điều này giúp Việt Nam cải thiện 28 bậc lên vị trí thứ 90 trong bảng "Chỉ số phục hồi Covid-19" của Nikkei công bố trong tháng 01/2022. Có thể nói, việc chấm dứt thành công và an toàn chuỗi ngày giãn cách xã hội diện rộng trước đó trên phạm vi toàn quốc là chiến thắng ngoạn mục, có tính quyết định khởi đầu cho quá trình phục hồi và tăng tốc kinh tế, tạo niềm tin và đồng thuận xã hội ngày càng khả quan của Việt Nam.

Thứ hai, các thành quả đạt được trong thập kỷ trước và các tiềm năng tăng trưởng trung hạn của Việt Nam vẫn được duy trì; đặc biệt, sự ổn định chính trị - xã hội, các chuỗi cung ứng sớm được khôi phục và da dạng hóa, niềm tin đầu tư được giữ vững, lạm phát được kiểm soát, nợ công ổn định và dự trữ ngoại hối đạt mức cao kỷ lục… Tất cả tạo bộ đệm để Việt Nam ứng phó với các cú sốc từ bên ngoài, đẩy nhanh thời gian mở cửa du lịch, tạo sự bùng nổ trở lại du khách nội địa, tăng thu hút khách quốc tế cũng tới 89,1%, khôi phục sản xuất kinh doanh và nâng mức tăng trưởng GDP quý I/2022 lên 5,03% so với cùng kỳ năm trước…

Thứ ba, động lực cho sức sống và phục hồi nhanh kinh tế Việt Nam còn được nhân lên từ sự thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và khai thác các cơ hội xuất khẩu từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA) và Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Nhờ đó, Việt Nam đã và đang tiếp tục mở rộng quy mô thương mại quốc tế và hình thành các thị trường xuất khẩu ổn định, đáng tin cậy. Quý I/2022 so với cùng kỳ năm 2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 176 tỷ USD, tăng 14,4%; trong đó, xuất khẩu tăng 12,9%, riêng các nhóm hàng nông sản tăng khoảng 18 - 19%; cá biệt, cà phê, gạo, thủy sản tăng từ 38% đến gần 50% và xuất khẩu thủy sản tăng 38,7%. Việt Nam tiếp tục xuất siêu 809 triệu USD trong quý I/2022 và dự báo sẽ gia tăng trong thời gian tới.

Dòng vốn FDI chảy vào và thực hiện suốt thời gian đại dịch vừa qua vẫn duy trì trạng thái khả quan. Trong năm 2020, dòng vốn FDI vào Việt Nam chỉ giảm 2%, trong khi thế giới giảm 40%; năm 2021, dòng vốn FDI vào Việt Nam không giảm; quý I/2022, vốn FDI thực hiện đạt 4,4 tỷ USD, cao nhất cùng kỳ từ năm 2018 đến nay. Trên thực tế đã và đang ghi nhận nhiều dự án FDI mới công nghệ cao (như dự án 2,2 tỷ USD vào năm 2021 của LG Display; Toshiba sẽ chuyển toàn bộ sản xuất điện tử ở Trung Quốc sang Việt Nam và Nhật Bản), hoặc các dự án cũ tiếp tục mở rộng đầu tư (như Samsung sẽ nâng cấp lên 50% năng lực sản xuất ở Việt Nam cho các thiết bị có tính năng gập lại được).
 


Việt Nam cần tăng cường bộ đệm an toàn cho hệ thống tài chính, kiểm soát vốn vay bị sử dụng sai mục đích, tránh tập trung vốn vào các lĩnh vực rủi ro như cổ phiếu và bất động sản (Nguồn ảnh: Internet)
 
Sự lạc quan của cộng đồng doanh nghiệp còn được củng cố nhờ môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện. Theo Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam, Chỉ số môi trường kinh doanh quý IV/2021 của Việt Nam được các doanh nghiệp châu Âu đánh giá tích cực không chỉ nhờ thành tựu chống dịch, sớm bình thường hóa hoạt động kinh tế, mà còn vì Việt Nam là nền kinh tế tự do đứng thứ 17/40 quốc gia ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và đứng thứ 90/184 nền kinh tế trên thế giới theo bảng xếp hạng về Chỉ số tự do kinh tế năm 2021 (Index of Economic Freedom 2021). Đây cũng là năm đầu tiên kinh tế Việt Nam bước vào nhóm các nền kinh tế có "tự do trung bình" (Moderately Free), tăng 15 bậc so với năm trước.

Thứ tư, nội lực được phát huy nhờ cộng đồng doanh nghiệp ở Việt Nam đang chủ động và linh hoạt hơn trong nắm bắt, đa dạng hóa, nâng cao sức cạnh tranh và uy tín, đáp ứng nhanh và tốt hơn các nhu cầu biến đổi của thị trường. Trong quý I/2022, số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động tăng 36,7% so với cùng kỳ năm 2021; tổng vốn đăng ký vào nền kinh tế tăng 21%, trong đó vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp đang hoạt động tăng 34,5%. Có tới 82,3% doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được Tổng cục Thống kê khảo sát về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý II/2022 với đánh giá sẽ ổn định và tốt hơn so với quý I/2022.

Đặc biệt, sức sống và động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế năm 2022 còn được cộng hưởng từ điều hành kinh tế linh hoạt, sự cộng hưởng các chính sách hỗ trợ về tài chính, tín dụng (giảm, giãn nộp thuế, tiền thuê đất, phí trước bạ, lãi suất và thời hạn trả nợ), mở rộng đầu tư công, tăng cường cải cách thể chế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và chuyển đổi số. Quốc hội đã phê chuẩn gói giải pháp tài khóa và tiền tệ lớn với quy mô 347.000 tỷ đồng (khoảng 15 tỷ USD) để triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế (ERDP) trong năm 2022 và 2023. Các tổ chức tín dụng tiếp tục ​​giảm lãi suất cho vay 0,5 - 1% và các biện pháp hỗ trợ tín dụng đến hết năm 2023, với tổng mức hỗ trợ lãi suất lên đến 40 nghìn tỷ đồng (khoảng 1,7 tỷ USD). Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trong quý I/2022 tăng 8,9% và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện đạt mức trên 9%, cao nhất so với quý I của các năm 2018 - 2022.

Lạc quan, tin tưởng và quyết tâm cao, nhưng thận trọng và quyết liệt trong chỉ đạo, Chính phủ nhận định tình hình những tháng tới sẽ tiếp tục có khó khăn, thách thức nhiều hơn thuận lợi và nhiều diễn biến không dự báo được, yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương theo dõi, dự báo sát tình hình, kịp thời có giải pháp khắc phục khó khăn, chủ động khai thác các cơ hội nhằm triển khai có hiệu quả cao nhất các nhiệm vụ, giải pháp của Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 vừa được ban hành theo Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022; nỗ lực tạo đột phá nâng cao chất lượng, hiệu quả của cải cách hành chính; gắn kết công tác cải cách hành chính của các bộ, ngành, địa phương với việc xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số, tăng cường trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, đơn vị và người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp; thực hiện việc số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính tại bộ phận “một cửa” cấp bộ, cấp tỉnh từ ngày 01/6/2022, tại bộ phận “một cửa” cấp huyện từ ngày 01/12/2022; tích hợp, cung cấp 100% các dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia; thực hiện hiệu quả cơ chế một cửa quốc gia và cơ chế một cửa ASEAN...

Thứ năm, tiếp tục chủ động nhận diện và tháo gỡ các khó khăn trong tăng trưởng.

Trên thực tế, để phục hồi nhanh và tăng trưởng bền vững, Việt Nam cần nhận diện và tháo gỡ các trở ngại, như: Các diễn biến phức tạp và thiếu thống nhất trong chính sách kiểm soát dịch Covid-19; nhận diện đầy đủ và khắc phục tình trạng gia tăng bất bình đẳng tiền tệ và phi tiền tệ do hậu quả của cuộc khủng hoảng Covid-19; chủ động các kịch bản đối phó với khả năng tốc độ phục hồi kinh tế toàn cầu chậm lại, nhất là khả năng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chế biến, chế tạo sẽ tăng với tốc độ chậm hơn do tăng trưởng ở các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) và Trung Quốc đang chững lại; giá dầu, giá chi phí vật liệu xây dựng và lạm phát thế giới tăng cao, những bất ổn trên thị trường tài chính toàn cầu gắn với cú sốc tỷ giá thương mại do căng thẳng Nga-Ukraine, các biện pháp trừng phạt liên quan và việc các nước phát triển tăng lãi suất làm thay đổi dòng vốn đầu tư quốc tế, khiến chi phí vốn tăng, nhập khẩu đắt hơn và gia tăng áp lực lạm phát, nợ xấu trong nước. Việt Nam cũng cần tăng cường bộ đệm an toàn cho hệ thống tài chính, kiểm soát vốn vay bị sử dụng sai mục đích, tránh tập trung vốn vào các lĩnh vực rủi ro như cổ phiếu và bất động sản. Ngoài ra, sự thận trọng đầu tư và tiêu dùng của khu vực tư nhân và tiến độ giải ngân vốn đầu tư công chậm có thể sẽ làm giảm tác động kỳ vọng đối với tăng trưởng. Việc cải thiện hơn nữa tài chính công thông qua củng cố tài khóa bền vững, khắc phục những yếu kém trong lĩnh vực ngân hàng về vốn hóa, minh bạch về chất lượng tài sản và khuôn khổ pháp lý sẽ là những yếu tố tích cực giúp cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia trong thời gian tới.

Hơn nữa, theo WB, mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế thu nhập trung bình cao sẽ phụ thuộc vào năng lực thể chế và khả năng chuyển đổi nhanh sang mô hình tăng trưởng dựa vào năng suất và đổi mới sáng tạo, tập trung vào xây dựng nền kinh tế chuyển đổi số, xanh hơn và có khả năng chống chịu tốt hơn trước các cú sốc từ bên ngoài; tiếp tục cải thiện và nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu; phát triển các ngành dịch vụ theo chiều sâu, tạo thêm động lực cho việc tăng năng suất khu vực dịch vụ và khu vực sản xuất kinh doanh cùng nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế. Đồng thời, phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, mặc dù tỷ lệ nghèo được kỳ vọng sẽ giảm trong năm 2022.

Đặc biệt, thực tế hiện nay cho thấy, giá dầu cao, sự đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu truyền thống cùng với dịch Covid-19  đã, đang và sẽ là cộng lực thúc đẩy lạm phát và nợ công, cùng với những áp lực an sinh xã hội tăng cao… đòi hỏi các nước cần có các giải pháp phù hợp mới trên cơ sở bảo đảm an ninh chính đáng, hài hòa lợi ích và phát triển bền vững, nếu không muốn nhận thêm những thảm họa nhân tạo với quy mô và hệ lụy mới, nặng nề hơn, cả trong ngành năng lượng, cũng như trong các lĩnh vực kinh tế khác, cả vĩ mô và vi mô, cả ở mỗi nước và trên phạm vi toàn cầu… Đối với Việt Nam, để giảm thiểu tác động tiêu cực của tăng giá xăng dầu, một mặt, các cơ quan hữu quan chủ động xây dựng các kịch bản và các giải pháp thích ứng hiệu quả trên cơ sở bám sát và dự báo tốt, tăng cường chất lượng thông tin về những biến động thị trường và địa chính trị quốc tế trong thời gian tới; chủ động đa dạng hóa nguồn cung dầu trong nước và thế giới; tìm cách tiếp cận an toàn với nguồn dầu giá rẻ và với phương thức thanh toán phù hợp; tăng dự trữ quốc gia về dầu mỏ và thay đổi cơ chế quỹ bình ổn giá xăng dầu hiện hành theo hướng chuyển nhập quỹ này vào quỹ dự trữ xăng dầu quốc gia; linh hoạt hóa mức thu ngân sách Nhà nước và giảm các chi phí trong giá cơ sở xăng dầu; mặt khác, cần chủ động gia tăng sản xuất và sử dụng các năng lượng thay thế phi dầu mỏ, nhất là năng lượng sạch, tái tạo; đồng thời, vận động người dân, doanh nghiệp tiết giảm sử dụng xăng dầu cả trong sản xuất kinh doanh và trong sinh hoạt; nghiêm cấm và xử phạt kịp thời đủ sức răn đe các hành vi đầu cơ, trục lợi, găm giữ gây khan hiếm giả tạo xăng dầu trên thị trường.
 
Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình.
2. Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025.
3. Báo cáo Triển vọng Phát triển châu Á 2022 được Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) công bố ngày 06/4/2022.
4. Báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương kỳ tháng 4/2022 với chủ đề "Đương đầu bão tố" của WB.
5. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2022/03/thong-cao-bao-chi-ve-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-i-nam-2022/

Minh Phong
 

       

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Hội đồng trường đại học: Các điểm nghẽn cần quan tâm tháo gỡ trong bối cảnh hiện nay
Hội đồng trường đại học: Các điểm nghẽn cần quan tâm tháo gỡ trong bối cảnh hiện nay
31/05/2023 51 lượt xem
Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập hiện nay, giáo dục đại học đã có sự chuyển mình cần thiết để phù hợp với xu thế phát triển. Việc thành lập hội đồng trường là một trong những chủ trương đúng đắn, tiệm cận với giáo dục đại học thế giới. Hội đồng trường được thành lập là bước đi và khâu quan trọng để tiến tới tự chủ đại học.
Ảnh hưởng của dân trí tài chính đến quản lí nợ của người lao động phổ thông Việt Nam
Ảnh hưởng của dân trí tài chính đến quản lí nợ của người lao động phổ thông Việt Nam
29/05/2023 137 lượt xem
Định nghĩa về dân trí tài chính (financial literacy) từ trước đến nay luôn khiến các nhà nghiên cứu gặp khó khăn bởi có nhiều quan điểm sử dụng những từ ngữ khác nhau để đề cập đến khái niệm này như: “hiểu biết về tài chính”, “kiến thức tài chính”, “năng lực tài chính”…
Tác động của tái định vị thương hiệu đến hiệu quả kinh doanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tác động của tái định vị thương hiệu đến hiệu quả kinh doanh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
16/05/2023 251 lượt xem
Tái định vị thương hiệu là xu hướng marketing đi cùng sự phát triển của doanh nghiệp, sự thay đổi và phát triển về nhu cầu của khách hàng mục tiêu, của thị trường và của môi trường kinh doanh. Tái định vị thương hiệu ngân hàng giúp các ngân hàng có được vị trí trong tâm trí và trái tim khách hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị phần và gia tăng hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Nghiên cứu thực nghiệm về ý định chấp nhận tiền điện tử của thế hệ Z bằng việc vận dụng lí thuyết về hành vi có kế hoạch
Nghiên cứu thực nghiệm về ý định chấp nhận tiền điện tử của thế hệ Z bằng việc vận dụng lí thuyết về hành vi có kế hoạch
12/05/2023 1.213 lượt xem
Nghiên cứu này nhằm mục đích khám phá ý định hành vi của thế hệ Z (thế hệ sinh ra từ năm 1997 đến năm 2012) đối với việc chấp nhận tiền điện tử. Bằng việc vận dụng lí thuyết về hành vi có kế hoạch để thực hiện phân tích ý định hành vi chấp nhận tiền điện tử, nghiên cứu sử dụng phương pháp bình phương bé nhất riêng phần (PLS) với cách tiếp cận để phân tích mẫu 230 người thuộc thế hệ Z.
Giảm tốc kinh tế thế giới và nhân tố tác động
Giảm tốc kinh tế thế giới và nhân tố tác động
10/05/2023 362 lượt xem
Năm 2022, kinh tế thế giới giảm tốc do bất ổn địa chính trị, lạm phát ở mức cao và làn sóng tăng lãi suất của các ngân hàng trung ương. Trong quý I và dự báo triển vọng kinh tế thế giới năm 2023 tiếp tục chứng kiến biến động ở nhiều khu vực bởi những “tàn dư” của đại dịch Covid-19, áp lực lạm phát, khủng hoảng năng lượng do hậu quả của xung đột Nga - Ukraine và lãi suất tăng cao tiếp tục đẩy kinh tế thế giới suy giảm mạnh.
Trí tuệ nhân tạo thúc đẩy hoạt động bán hàng trả góp
Trí tuệ nhân tạo thúc đẩy hoạt động bán hàng trả góp
08/05/2023 270 lượt xem
Trí tuệ nhân tạo đã và đang góp phần quan trọng trong việc thay đổi toàn diện hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống con người. Hiểu và áp dụng đúng trí tuệ nhân tạo sẽ đem lại những tiện ích, rút ngắn thời gian nghiệp vụ, loại bỏ những thủ tục rườm rà...
Quyết định tài trợ tín dụng xanh cho bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu: Nghiên cứu các nhân tố và khuyến nghị
Quyết định tài trợ tín dụng xanh cho bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu: Nghiên cứu các nhân tố và khuyến nghị
05/05/2023 280 lượt xem
Sự phát triển của tín dụng xanh phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau và các yếu tố tác động đến sự phát triển của tín dụng xanh theo những cách khác nhau, tùy thuộc vào bối cảnh của mỗi quốc gia, trong từng giai đoạn phát triển, sự phát triển của nền kinh tế và thị trường tài chính.
Rủi ro tín dụng và các mô hình quản lí rủi ro tín dụng tại Việt Nam
Rủi ro tín dụng và các mô hình quản lí rủi ro tín dụng tại Việt Nam
04/05/2023 718 lượt xem
Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường.
 Kinh tế toàn cầu tác động và ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế trong nước
Kinh tế toàn cầu tác động và ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế trong nước
29/04/2023 553 lượt xem
Trong 4 tháng đầu năm 2023, hầu hết các nền kinh tế phát triển đều tăng trưởng chậm lại; trong đó, GDP quý I/2023 của Mỹ dự báo chỉ tăng khoảng 1% và khu vực châu Âu tăng 0,1% so với cùng kì năm 2022...
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với hệ thống chuỗi cung ứng
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với hệ thống chuỗi cung ứng
26/04/2023 419 lượt xem
Một trong những thách thức lớn nhất mà các công ty sản xuất phải đối mặt hiện nay là sự gia tăng đáng kể các vấn đề về chuỗi cung ứng. Thật không may, cách tiếp cận truyền thống không thể phù hợp với sự đa dạng của những vấn đề phức tạp này. Sự ra đời các công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) giúp liên kết các hoạt động thông minh với thiết kế và quy trình chuỗi cung ứng để cứu vãn một số thiếu hụt hoạt động trong chuỗi cung ứng.
Các nhân tố phía cầu tác động đến tài chính toàn diện tại Việt Nam
Các nhân tố phía cầu tác động đến tài chính toàn diện tại Việt Nam
12/04/2023 849 lượt xem
Tài chính toàn diện ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong phát triển, ổn định kinh tế của mỗi quốc gia, do đó, việc nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng tới tài chính toàn diện tại Việt Nam có ý nghĩa về mặt lí luận và thực tiễn. Kết quả mô hình các nhân tố tác động tới tài chính toàn diện tại Việt Nam chỉ ra rằng: Giới tính có tác động ngược chiều tới việc sở hữu tài khoản, sử dụng các dịch vụ tiết kiệm, sử dụng thẻ ATM, sử dụng thẻ tín dụng, sử dụng dịch vụ bảo hiểm, đầu tư.
Ảnh hưởng của kiến thức và sự tự tin đến hành vi ra quyết định của khách hàng trong sử dụng dịch vụ tài chính
Ảnh hưởng của kiến thức và sự tự tin đến hành vi ra quyết định của khách hàng trong sử dụng dịch vụ tài chính
06/04/2023 720 lượt xem
Kiến thức tài chính của khách hàng là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến hành vi của khách hàng trong sử dụng dịch vụ tài chính. Kiến thức này bao gồm hai loại: Kiến thức chủ quan và kiến thức khách quan. Hai loại kiến thức này hình thành nên sự tự tin thái quá hoặc kém tự tin của khách hàng. Khi khách hàng quá tự tin hay kém tự tin sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả ra quyết định của khách hàng.
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường và hàm ý cho Việt Nam
Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường và hàm ý cho Việt Nam
25/03/2023 1.114 lượt xem
Công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường (BVMT) bao gồm thuế, phí, lệ phí, đặt cọc, kí quỹ, quỹ BVMT, trợ cấp môi trường... Không giống như công cụ hành chính mang tính chất mệnh lệnh, công cụ kinh tế mang tính mềm dẻo, linh hoạt, khiến cho người gây ô nhiễm và người hưởng thụ môi trường có các hành vi xử sự có lợi cho môi trường.
Tác động của quản lí rủi ro tín dụng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tác động của quản lí rủi ro tín dụng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam
20/03/2023 1.031 lượt xem
Quản lí rủi ro tín dụng hiệu quả đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe của các ngân hàng vì nó có thể phá hủy hoặc đảm bảo khả năng duy trì và tăng trưởng của ngân hàng. Bài viết nghiên cứu tác động của quản lí rủi ro tín dụng, được đo lường bằng tỉ lệ nợ xấu, tỉ lệ an toàn vốn, tỉ lệ chi phí, tỉ lệ thanh khoản, tỉ lệ cho vay trên tiền gửi đối với khả năng sinh lời, được đo lường bằng tỉ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam.
Vai trò của tài chính số trong ổn định hệ thống tài chính
Vai trò của tài chính số trong ổn định hệ thống tài chính
16/03/2023 1.197 lượt xem
Trên thế giới và ở Việt Nam, tài chính số đang ở trong giai đoạn phát triển bùng nổ với nhiều loại hình dịch vụ đa dạng. Qua nhiều nghiên cứu và kiểm nghiệm thực tế cho thấy, phát triển tài chính số cải thiện sự ổn định của hệ thống tài chính thông qua việc tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng và hạn chế tỉ lệ lạm phát.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

66.350

66.950

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

66.350

66.950

Vàng SJC 5c

66.350

66.970

Vàng nhẫn 9999

55.600

56.550

Vàng nữ trang 9999

55.450

56.150


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 23,280 23,650 24,502 25,874 28,257 29,461 162.61 172.15
BIDV 23,320 23,620 24,683 25,868 28,388 29,643 163.61 172.34
VietinBank 23,231 23,651 24,769 25,904 28,658 29,668 164.32 172.27
Agribank 23,270 23,630 24,756 25,757 28,524 29,350 165.11 171.87
Eximbank 23,250 23,630 24,808 25,484 28,613 29,392 165.16 169.66
ACB 23,200 23,700 24,826 25,453 28,770 29,379 165.1 169.44
Sacombank 23,271 23,674 24,959 25,471 28,836 29,349 165.55 171.09
Techcombank 23,310 23,653 24,574 25,891 28,282 29,572 161 173.28
LPBank 23,290 23,890 24,715 26,049 28,678 29,610 162.64 174.07
DongA Bank 23,330 23,660 24,800 25,480 28,610 29,380 162.6 169.7
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,20
BIDV
0,10
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,90
7,20
7,20
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,20
Cake by VPBank
1,00
-
-
-
6,00
-
6,00
8,90
-
9,00
9,00
ACB
-
0,50
0,50
0,50
4,60
4,70
4,80
6,40
6,60
6,80
6,90
Sacombank
-
-
-
-
5,30
5,40
5,50
7,30
7,40
7,60
7,90
Techcombank
0,10
-
-
-
5,40
5,40
5,40
7,10
7,10
7,10
7,10
LPBank
-
0,20
0,20
0,20
5,00
5,00
5,00
7,30
7,30
7,70
8,00
DongA Bank
1,00
1,00
1,00
1,00
5,50
5,50
5,50
7,90
7,95
8,00
8,30
Agribank
0,30
-
-
-
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,00
Eximbank
0,20
0,50
0,50
0,50
5,50
5,50
5,50
6,30
6,60
7,10
7,50

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?