Đổi mới mô hình nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam
11/03/2022 3.827 lượt xem
Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) được thành lập theo Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg ngày 19/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ để thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước và các nhiệm vụ khác được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao.

Trải qua hơn 15 năm hoạt động, VDB đã cấp tín dụng hàng trăm ngàn tỷ đồng để hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện các dự án, phương án đầu tư, kinh doanh và xuất khẩu hàng hóa. Ngoài ra, VDB cũng đã hỗ trợ lãi suất hoặc bảo lãnh cho nhiều doanh nghiệp vay vốn tại các tổ chức tín dụng khác để thực hiện các dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh mà VDB không trực tiếp cho vay.

Đánh giá một cách tổng quát, hoạt động của VDB những năm qua đã cung ứng cho nền kinh tế một lượng vốn tín dụng tương đối lớn, đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển nhằm tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao năng lực sản xuất và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thông qua hoạt động cho vay đối với các dự án đầu tư phát triển, nguồn vốn tín dụng từ VDB còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nông nghiệp, nông thôn và đảm bảo an sinh xã hội. Bên cạnh đó, với việc phát hành một lượng lớn trái phiếu để huy động vốn, cùng với việc tài trợ vốn cho nhiều dự án và doanh nghiệp thông qua các hình thức cấp tín dụng gián tiếp (bảo lãnh vay vốn, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư), hoạt động của VDB đã góp phần tích cực vào việc bổ sung công cụ nợ cũng như tăng quy mô dư nợ tín dụng của nền kinh tế, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính…

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả quan trọng đã đạt được nói trên, hoạt động của VDB thời gian qua cũng bộc lộ những điểm tồn tại, hạn chế mà trong đó, thể hiện rõ nhất là chất lượng tín dụng chưa cao và cân đối tài chính vẫn còn thâm hụt. Cùng với đó, hoạt động của VDB cũng còn nhiều điểm thiếu vắng so với yêu cầu của một ngân hàng chuyên nghiệp và hiện đại theo thông lệ hoặc một ngân hàng chính sách bền vững, hiệu quả và đủ năng lực thực hiện các nhiệm vụ được giao như mục tiêu đã đặt ra trong Chiến lược phát triển VDB đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 theo Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ.

Những tồn tại, hạn chế nói trên trong hoạt động của VDB bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau, cả khách quan lẫn chủ quan. Tuy nhiên, nổi bật lên trong đó là những nguyên nhân bắt nguồn từ sự bất cập trong các quy định của Nhà nước về mô hình hoạt động của VDB. Cụ thể:

Một là, địa vị pháp lý của VDB chưa được xác định rõ ràng:

Trước đây, các quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập VDB cũng như phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của VDB không quy định rõ VDB thuộc loại hình tổ chức nào. Đến khi ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của VDB theo Quyết định số 1515/QĐ-TTg ngày 03/9/2015, Thủ tướng Chính phủ có quy định VDB là ngân hàng chính sách.

Mặc dù Luật Các tổ chức tín dụng (ban hành năm 1997 và năm 2010) đều có đề cập đến ngân hàng phát triển hoặc ngân hàng chính sách¹, tuy nhiên, ngoài việc liệt kê tên trong Luật hoặc giao Chính phủ thành lập và quy định về tổ chức và hoạt động của ngân hàng chính sách, đến thời điểm hiện nay, vẫn chưa có một văn bản pháp lý nào quy định cụ thể về mô hình hoạt động của ngân hàng chính sách hay ngân hàng phát triển. Điều này dẫn tới việc các cơ quan quản lý nhà nước và cơ quan tư pháp, các khách hàng, đối tác của VDB và chính bản thân VDB lúng túng trong việc xác định địa vị pháp lý của VDB. Hệ quả là VDB gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động (huy động vốn, giao dịch bảo đảm, xử lý nợ xấu, giải quyết tranh chấp pháp lý...) do không xác định được nguồn luật áp dụng.
 
Hai là, cơ chế chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước thời gian qua còn nhiều bất cập, thể hiện trên nhiều mặt như:

- Danh mục đối tượng vay vốn chưa thể hiện hết các ưu tiên chiến lược trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia và thiếu tính thực tiễn, tính ổn định chưa cao. Hiện nay, nhiều đối tượng hoặc lĩnh vực vay vốn không có nhiều khách hàng đầu tư dự án nên số lượng dự án ngày càng giảm qua các năm, ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng dư nợ. Qua các giai đoạn, đối tượng được vay vốn tín dụng đầu tư đã thu hẹp khá nhiều.

- Chính sách lãi suất còn những điểm chưa phù hợp: Lãi suất cho vay các năm trước được ấn định không theo nguyên tắc thị trường, cố định ở mức thấp trong thời gian dài dẫn đến việc khách hàng chiếm dụng vốn của VDB, không trả nợ. Quy định lãi suất điều chỉnh chưa linh hoạt và thẩm quyền công bố là Bộ Tài chính thời gian qua đã không tạo sự chủ động theo cơ chế đồng thuận giữa VDB và khách hàng, đặc biệt trong điều kiện thị trường có nhiều biến động. Nhiều khoản vay với lãi suất cao trước đây chưa được giảm lãi suất phù hợp với diễn biến thị trường nên nhiều khách hàng trả nợ trước hạn dẫn đến tăng trưởng tín dụng âm vào các năm gần đây.

- Các quy định không hợp lý về dự phòng rủi ro và xử lý rủi ro cũng như cơ chế tài chính đang tiếp tục làm gia tăng các nguy cơ về rủi ro tín dụng, rủi ro tài chính và rủi ro thanh khoản. Mặc dù có đối tượng tài trợ tiềm ẩn nhiều rủi ro dễ phát sinh nợ xấu nhưng trong nhiều năm trở lại đây, việc xử lý nợ xấu của VDB thường xuyên gặp vướng mắc do Quy chế xử lý rủi ro tín dụng tại VDB đến nay vẫn chưa được ban hành.

Ba là, VDB chưa được bố trí đủ nguồn lực tương xứng với nhiệm vụ được giao:

Mặc dù các vấn đề về đồng bộ hóa giữa bố trí nguồn lực và giao nhiệm vụ cho VDB đã được đề cập trong Chiến lược phát triển VDB đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 theo Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ nhưng chưa được thực hiện đầy đủ. Liên tục trong nhiều năm, ngân sách nhà nước thường xuyên gặp khó khăn trong bố trí đủ nguồn để cấp vốn điều lệ, cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý cho VDB đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ. Trong khi đó, bên cạnh nhiệm vụ thực thi chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước vốn đã rất nặng nề, thời gian qua, VDB còn được giao thêm nhiều nhiệm vụ đòi hỏi nguồn lực lớn, chẳng hạn cho vay chương trình kiên cố hóa kênh mương, tôn nền vượt lũ và giao thông nông thôn hoặc cho vay đầu tư dự án Đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng…

Bốn là, quyền tự chủ của VDB trong hoạt động nghiệp vụ rất hạn chế:

Là một ngân hàng được giao thực thi chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, song quyền tự chủ của VDB trong thực thi nhiệm vụ lại được quy định rất hạn chế. Sự hạn chế về quyền tự chủ của VDB có thể nhận ra ở rất nhiều hoạt động, từ việc huy động vốn, cho vay, thu hồi và xử lý nợ… Chẳng hạn:

- Về huy động vốn: Nguồn vốn hoạt động của VDB chủ yếu được hình thành từ nguồn phát hành trái phiếu, trong khi quy mô phát hành trái phiếu hàng năm của VDB lại phụ thuộc vào hạn mức bảo lãnh của Chính phủ.

- Về cho vay: Tùy theo Nghị định về tín dụng đầu tư của Nhà nước được Chính phủ ban hành ở từng thời kỳ, việc cho vay của VDB đối với các dự án có rất nhiều nội dung phải trình Bộ Tài chính hoặc Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Chẳng hạn, theo Nghị định số 75/2011/NĐ-CP ngày 30/8/2011 của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, Bộ Tài chính quyết định lãi suất cho vay, Thủ tướng Chính phủ quyết định việc cho vay đối với các trường hợp vượt 70% tổng mức đầu tư hoặc vượt quá 15% vốn điều lệ thực có của VDB; còn theo Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ quyết định việc cho vay đối với các trường hợp vay vốn quá 15 năm, hoặc vượt 15% vốn tự có của VDB (đối với một khách hàng) và 25% vốn tự có của VDB (đối với một nhóm khách hàng liên quan) hoặc các trường hợp không đáp ứng đủ yêu cầu thông thường về bảo đảm tiền vay… Cùng với đó, quy mô cho vay của VDB cũng do Thủ tướng Chính phủ quyết định thông qua Kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển được giao cho VDB hằng năm.

- Về xử lý nợ: Mặc dù các khoản nợ xấu của VDB có thể được xử lý bằng nhiều biện pháp khác nhau, song theo Nghị định của Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước ban hành qua các thời kỳ, thì VDB chủ yếu được thực hiện biện pháp gia hạn nợ, còn các biện pháp khác (khoanh nợ, xóa nợ gốc, xóa nợ lãi, bán nợ…) phải được quyết định bởi Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc Thủ tướng Chính phủ…

Đến thời điểm hiện tại, VDB đang trong quá trình cơ cấu lại tổ chức bộ máy và hoạt động. Từ những phân tích trên đây, có thể thấy rằng, để khắc phục được những tồn tại, hạn chế nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, thì việc đổi mới mô hình của VDB là việc làm hết sức cần thiết. Trong quá trình đó, cùng với việc xác định rõ ràng địa vị pháp lý của VDB trong các văn bản quy phạm pháp luật, thì việc mở rộng quyền tự chủ của VDB về hoạt động nghiệp vụ cũng như tài chính là rất quan trọng. Theo đó, chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước cần được điều chỉnh theo hướng tính đủ các chi phí (bao gồm cả chi phí huy động vốn, chi phí dự phòng rủi ro và các chi phí quản lý khác) vào lãi suất cho vay; đồng thời, Nhà nước cần giao cho VDB tự chủ trong việc xác định lãi suất cho vay phù hợp với tình hình hoạt động thực tế. Cùng với đó, thẩm quyền của VDB cũng cần được mở rộng hơn trong một số hoạt động như huy động vốn, quyết định các chỉ tiêu cho vay (mức vốn cho vay, thời hạn cho vay, thời hạn ân hạn, tỷ lệ bảo đảm tiền vay) cũng như quyết định các biện pháp xử lý rủi ro.

Bên cạnh việc sửa đổi chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước như trên, VDB cũng  nên kiến nghị các cơ quan chức năng xem xét mở rộng phạm vi hoạt động của VDB sang một số lĩnh vực cho vay (như: cho vay vốn lưu động ổn định sản xuất ban đầu, cho vay các doanh nghiệp mới khởi nghiệp…); đồng thời, thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ và cung cấp dịch vụ ngân hàng phù hợp với năng lực của VDB và nhu cầu khách hàng để tạo ra chênh lệch thu - chi hằng năm tương xứng, đảm bảo không những dự phòng cho các hoạt động của VDB mà còn có đủ khả năng tài chính để phát triển hoạt động của mình, giảm dần sự lệ thuộc vào ngân sách nhà nước. Ngoài ra, VDB cũng cần tích cực làm việc với các cơ quan quản lý nhà nước để được bố trí kế hoạch thanh toán đủ các khoản từ ngân sách nhà nước, bao gồm cả vốn điều lệ, các khoản cấp bù chênh lệch lãi suất và phí quản lý.

Những giải pháp trên đây nếu được thực hiện, khả năng tự chủ về tài chính và hoạt động nghiệp vụ của VDB sẽ được nâng lên rất đáng kể. Đây chính là  tiền đề vững chắc cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động của VDB, đồng thời cũng là nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước trong thời gian tới.

 
¹Theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác (Điều 20); Phát triển các ngân hàng chính sách hoạt động không vì mục đích lợi nhuận phục vụ người nghèo và các đối tượng chính sách khác nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước (Khoản 3 Điều 4). Còn theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, Chính phủ thành lập ngân hàng chính sách hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước; Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của ngân hàng chính sách (Điều 17).
 
TS. Nguyễn Cảnh Hiệp
Ngân hàng Phát triển Việt Nam
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Tạo lập nguồn vốn qua kênh tín dụng ngân hàng góp phần phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Long An
Tạo lập nguồn vốn qua kênh tín dụng ngân hàng góp phần phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Long An
19/04/2024 174 lượt xem
Tỉnh Long An là địa phương có vị trí thuận lợi, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, giáp ranh với Thành phố Hồ Chí Minh và là cửa ngõ đi về các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Cùng với đó, điều kiện tự nhiên của tỉnh Long An cũng rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và công nghiệp.
Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hưng Yên: Phát huy vai trò trụ cột giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội ở địa phương
Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Hưng Yên: Phát huy vai trò trụ cột giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội ở địa phương
09/04/2024 837 lượt xem
Xã Tân Châu, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên hôm nay đã là địa danh nổi tiếng với nhiều loại cây ăn quả, nơi cung cấp cây giống, cây cảnh ra toàn quốc và xuất khẩu sang nhiều nước láng giềng.
Đảm bảo an ninh, an toàn trong lĩnh vực thanh toán trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
Đảm bảo an ninh, an toàn trong lĩnh vực thanh toán trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
29/03/2024 1.499 lượt xem
Thời gian qua, hệ thống ngân hàng trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đã có những đóng góp tích cực vào phục vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương; trong đó, việc quản lí và đảm bảo an ninh, an toàn trong lĩnh vực thanh toán luôn được lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Chi nhánh tỉnh Quảng Trị chú trọng, quan tâm chỉ đạo sát sao.
Agribank cùng ngành Ngân hàng đóng góp quan trọng vào sự phục hồi và tăng trưởng kinh tế đất nước
Agribank cùng ngành Ngân hàng đóng góp quan trọng vào sự phục hồi và tăng trưởng kinh tế đất nước
26/03/2024 1.784 lượt xem
Ngay từ những tháng đầu năm 2024, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) đã nỗ lực quyết liệt triển khai đồng bộ nhiều giải pháp cùng ngành Ngân hàng thúc đẩy các động lực tăng trưởng trong bối cảnh nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức.
Phát huy lực lượng và tiềm năng của thế hệ trẻ từ nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội
Phát huy lực lượng và tiềm năng của thế hệ trẻ từ nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội
25/03/2024 1.786 lượt xem
Đảng ta xác định “thanh niên giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực con người”. Nghị quyết số 04-NQ/HNTW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về công tác thanh niên trong thời kì mới...
Tín dụng chính sách: Nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ
Tín dụng chính sách: Nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ
12/03/2024 2.497 lượt xem
Trong quá trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác phụ nữ; ban hành nhiều văn kiện, nghị quyết, chính sách, pháp luật, nghị định...
Agribank Chi nhánh tỉnh Quảng Trị dành nhiều ưu đãi hỗ trợ các đối tượng hưởng chính sách thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt
Agribank Chi nhánh tỉnh Quảng Trị dành nhiều ưu đãi hỗ trợ các đối tượng hưởng chính sách thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt
11/03/2024 2.763 lượt xem
Thực hiện Chỉ thị số 21/CT-TTg ngày 25/11/2022 của Thủ tướng Chính phủ về thúc đẩy chuyển đổi số trong chi trả an sinh xã hội (ASXH) không dùng tiền mặt và Công văn số 123/UBND-KGVX ngày 08/01/2024 của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Quảng Trị về tăng cường thực hiện chi trả ASXH không dùng tiền mặt trên địa bàn tỉnh...
Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền - mục tiêu quan trọng và xuyên suốt của chính sách bảo hiểm tiền gửi
Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền - mục tiêu quan trọng và xuyên suốt của chính sách bảo hiểm tiền gửi
27/02/2024 2.603 lượt xem
Năm 2023 qua đi với những dấu ấn quan trọng của ngành Ngân hàng vào quá trình phục hồi kinh tế - xã hội, đảm bảo thanh khoản và sự phát triển an toàn của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD).
Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Cư M’gar đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn ưu đãi cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác
Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Cư M’gar đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn ưu đãi cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác
26/02/2024 3.983 lượt xem
Qua hơn 20 năm hoạt động tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn, đến nay, Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk đã thực hiện cho vay 16 chương trình tín dụng chính sách...
Tổ vay vốn - cầu nối gắn kết giữa Agribank và khách hàng
Tổ vay vốn - cầu nối gắn kết giữa Agribank và khách hàng
26/02/2024 2.782 lượt xem
Thực hiện chính sách tín dụng theo Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ giai đoạn 2016 - 2020, nhiệm vụ và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện Thỏa thuận liên ngành giai đoạn 2021 - 2025, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank)...
Tăng cường xây dựng khuôn khổ pháp lý trong công tác phòng, chống rửa tiền
Tăng cường xây dựng khuôn khổ pháp lý trong công tác phòng, chống rửa tiền
19/02/2024 2.607 lượt xem
Xây dựng khuôn khổ pháp lý trong công tác phòng, chống rửa tiền (PCRT) luôn được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành đặc biệt quan tâm trong quá trình thực hiện công tác PCRT ở Việt Nam. Trong năm 2023, nhiều văn bản hướng dẫn Luật PCRT năm 2022 được ban hành, tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các tổ chức báo cáo triển khai hiệu quả công tác PCRT.
Phát triển tín dụng xanh tại Đồng bằng sông Cửu Long: Kết quả, thách thức và một số khuyến nghị
Phát triển tín dụng xanh tại Đồng bằng sông Cửu Long: Kết quả, thách thức và một số khuyến nghị
16/02/2024 2.817 lượt xem
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một trong những khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trên thế giới về các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu.
Công đoàn Ngân hàng Việt Nam đổi mới hoạt động, tích cực chăm lo đời sống đoàn viên, người lao động
Công đoàn Ngân hàng Việt Nam đổi mới hoạt động, tích cực chăm lo đời sống đoàn viên, người lao động
14/02/2024 2.113 lượt xem
Năm 2023 là năm ghi dấu ấn quan trọng trong quá trình phát triển của Công đoàn Ngân hàng Việt Nam (NHVN) với các hoạt động, sự kiện nổi bật kỷ niệm 30 năm thành lập và đặc biệt đã tổ chức thành công Đại hội Công đoàn NHVN lần thứ VII, nhiệm kỳ 2023 - 2028.
Nâng cao chất lượng hoạt động thông tin tín dụng, góp phần đảm bảo an toàn, lành mạnh hệ thống ngân hàng Việt Nam
Nâng cao chất lượng hoạt động thông tin tín dụng, góp phần đảm bảo an toàn, lành mạnh hệ thống ngân hàng Việt Nam
12/02/2024 2.198 lượt xem
Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) đang quản lí Kho dữ liệu thông tin tín dụng quốc gia với sự tham gia báo cáo thông tin của 100% các tổ chức tín dụng (TCTD) hoạt động tại Việt Nam, hơn 1.200 quỹ tín dụng nhân dân và các tổ chức tài chính vi mô cũng như các tổ chức khác trong và ngoài hệ thống ngân hàng, trên cơ sở cập nhật định kì, đột xuất dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại và các giải pháp thu thập, xử lí thông tin tự động, tiên tiến.
Truyền thông chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sáng tạo, đổi mới trong hoạt động truyền thông giáo dục tài chính
Truyền thông chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Sáng tạo, đổi mới trong hoạt động truyền thông giáo dục tài chính
11/02/2024 2.180 lượt xem
Truyền thông chính sách là vấn đề được quan tâm ở nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, những năm gần đây, truyền thông chính sách đã ngày càng khẳng định vai trò, ý nghĩa quan trọng. Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đặc biệt quan tâm tới truyền thông chính sách, triển khai tích cực và thường xuyên, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách và tạo sự đồng thuận trong xã hội.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?