Theo các chuyên gia, đối với các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, việc không quản lý được lạm phát sẽ tạo ra rất nhiều bất ổn. Từ sau khi ổn định hệ thống tiền tệ với chính sách room tín dụng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô khi lạm phát được kiểm soát tốt. Việc NHNN giữ quan điểm điều hành tín dụng hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế, nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát là định hướng đúng, nhất quán, tránh được các rủi ro bất ổn mà phải mất nhiều năm mới khắc phục được với phí tổn lớn như của giai đoạn từ năm 2008 - 2011.
Đảm bảo an toàn hệ thống, kiểm soát chặt chẽ nợ xấu phát sinh
Theo NHNN, để đảm bảo an toàn hệ thống, kiểm soát chặt chẽ nợ xấu phát sinh, thời gian qua, NHNN kiên định kiểm soát chặt chẽ tăng trưởng tín dụng gắn với nâng cao chất lượng tín dụng theo hướng điều hành chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng đầu năm và thông báo cho từng tổ chức tín dụng (TCTD).
Thực tế, đặc thù của nền
kinh tế Việt Nam là vốn
đầu tư dựa rất lớn vào nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng. Hiện nay, dư nợ tín dụng trên GDP của Việt Nam đang ở mức là 124% GDP và theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới thì Việt Nam là nước có tỷ lệ cao nhất trên thế giới. Điều này có nguy cơ rủi ro bất ổn vĩ mô tiềm ẩn. Bởi nguồn tiền gửi của dân cư, tổ chức gửi vào ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn, trong khi các doanh nghiệp vay chủ yếu kỳ hạn dài, điều này sẽ dẫn đến rủi ro thanh khoản trong trường hợp ngân hàng không đủ tiền để chi trả cho người dân gửi tiết kiệm đến kỳ tất toán. Điều này sẽ dẫn đến hệ lụy cho cả nền kinh tế. Không những thế, để đáp ứng nhu cầu về tín dụng của doanh nghiệp và nền kinh tế, nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) đã tăng cường huy động tiền gửi từ dân cư và các tổ chức, kéo theo là cuộc đua lãi suất. Khi lãi suất huy động tăng thì khả năng sẽ đẩy mặt bằng lãi suất cho vay tăng lên. Do đó, khi NHNN cấp hạn mức tín dụng cho NHTM thì việc tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng sẽ không thể tràn lan, từ đó chặn được cuộc đua lãi suất, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Khi NHNN cấp hạn mức tín dụng cho NHTM thì việc tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng sẽ không thể tràn lan, từ đó chặn được cuộc đua lãi suất, góp phần đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Mặt khác, khi nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào tín dụng của hệ thống ngân hàng thì mỗi khi có các cú sốc như đại dịch Covid-19, biến động của tình hình kinh tế thế giới, doanh nghiệp và người dân khó khăn trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, mất khả năng trả nợ thì nợ xấu tăng, trong trường hợp ngân hàng phải xử lý khối nợ xấu khổng lồ sẽ tiềm ẩn nguy cơ mất khả năng chi trả... Ngân hàng vốn là huyết mạch của nền kinh tế, do đó điều này cũng sẽ hệ lụy đến cả nền kinh tế.
Kiểm soát tăng trưởng tín dụng đã được NHNN áp dụng từ năm 2011 và thực tế đã chứng minh đây là một biện pháp hiệu quả trong tổ chức điều hành, nhờ đó mới đưa thị trường tiền tệ tín dụng ổn định trở lại. Trước đây, trong thời gian không có kiểm soát về chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng này thì các ngân hàng, các TCTD tăng trưởng tín dụng rất cao, có nhiều năm tăng trưởng tín dụng trên 30%/năm, cá biệt có những năm tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống lên đến 53,8%, như vậy sẽ tạo ra cuộc đua lãi suất để huy động được nguồn tiền cho vay...
Theo đánh giá của Vụ Chính sách tiền tệ (NHNN), năm 2022, áp lực lạm phát trong nước tăng nhanh đến từ cả yếu tố chi phí đẩy và tác động trễ của chính sách tiền tệ, tài khóa nới lỏng từ năm 2020. Điều này tạo thách thức lớn đối với công tác điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, trong đó có điều hành tín dụng để vừa hỗ trợ phục hồi kinh tế, nhưng phải đảm bảo kiểm soát lạm phát, đảm bảo hoạt động của các TCTD an toàn. Hiện nay, áp lực lên vốn tín dụng ngân hàng tăng cao theo đà phục hồi kinh tế trong khi thị trường vốn chưa phát triển tương xứng với yêu cầu của nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh áp lực rủi ro lạm phát gia tăng. Xu hướng tỷ lệ tín dụng trên GDP của Việt Nam tăng nhanh trong giai đoạn gần đây, tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống tài chính. Do đó, việc kiểm soát tăng trưởng tín dụng là cần thiết, phù hợp đặc thù kinh tế Việt Nam.
Bàn về hạn mức tín dụng, ông Lê Hoài Ân - chuyên gia tài chính (thành viên của Hiệp hội CFA) cũng cho rằng, với nền kinh tế Việt Nam, hệ thống ngân hàng đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bơm vốn cho nền kinh tế. Đối với các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, việc không quản lý được lạm phát sẽ tạo ra rất nhiều bất ổn. Ông Lê Hoài Ân nhận định, từ sau khi ổn định hệ thống tiền tệ với chính sách room tín dụng, NHNN đã đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô khi lạm phát được quản lý tốt, tỷ giá biến động trong biên độ hẹp, từ đó góp phần giúp gia tăng dòng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam khi niềm tin vào tiền đồng đối với nhà đầu tư nước ngoài gia tăng.
Bên cạnh công cụ hạn mức tín dụng, NHNN cũng sử dụng các công cụ điều hành khác nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng, qua đó góp phần ổn định vĩ mô. TS. Trần Du Lịch nhìn nhận, hiện NHNN đang có lộ trình giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn, đây là điều cần phải làm để bảo đảm an toàn, giảm dần gánh nặng vốn trung và dài hạn của NHTM, san sẻ cho các kênh huy động trực tiếp, trong đó trái phiếu doanh nghiệp là một kênh. Còn nếu vẫn để NHTM đảm đương vai trò cả vốn ngắn hạn, trung và dài hạn, đồng nghĩa với việc ngân hàng cứ chạy theo tín dụng và tiếp tục “nuôi rủi ro”.
Phân bổ tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD minh bạch, phù hợp
Tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 13/01/2022 của Thống đốc NHNN về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2022 (Chỉ thị số 01), NHNN định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2022 khoảng 14%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế. Chỉ tiêu tăng trưởng định hướng 14% được NHNN xây dựng trên cơ sở: Tình hình tăng trưởng tín dụng thực tế của năm 2021 (tăng 13,61%, cao hơn mức 12,17% của năm 2020); Mục tiêu tăng trưởng GDP khoảng 6 - 6,5%, lạm phát khoảng 4% và dự toán ngân sách nhà nước theo Nghị quyết số 34/2021/QH15 ngày 13/11/2021 của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước năm 2022.
Căn cứ định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2022 khoảng 14%, có điều chỉnh linh hoạt trên cơ sở diễn biến lạm phát, tình hình kinh tế trong, ngoài nước, NHNN đã phân bổ tăng trưởng tín dụng năm 2022 cho từng TCTD trên cơ sở: Kết quả xếp hạng mới nhất theo Thông tư số 52/2018/TT-NHNN ngày 31/12/2018 của Thống đốc NHNN quy định xếp hạng TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (đã được sửa đổi, bổ sung); xem xét một số yếu tố cụ thể hóa chủ trương, định hướng điều hành của Chính phủ, NHNN như TCTD tham gia hỗ trợ xử lý các ngân hàng yếu kém, giảm lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, tín dụng vào lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro,… Chủ trương được công bố ngay từ đầu năm 2022 tại Chỉ thị số 01.
Năm 2022, NHNN sử dụng kết quả xếp hạng chính thức từng TCTD để phân bổ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng. Căn cứ kết quả xếp hạng mới nhất theo Thông tư số 52/2018/TT-NHNN, tình hình hoạt động của các TCTD trong năm 2022, diễn biến thị trường và các tiêu chí đã định hướng từ đầu năm tại Chỉ thị số 01, NHNN đã thực hiện điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2022 đối với các TCTD có đề nghị và đã có thông báo gửi các TCTD này.
Hiện nay, có một số ý kiến cho rằng, NHNN cần cân nhắc nới chỉ tiêu tín dụng năm lên trên 14%. Tuy nhiên, theo NHNN, những tháng cuối năm 2022, NHNN tiếp tục điều hành tín dụng theo chỉ tiêu định hướng từ đầu năm 2022 khoảng 14%, bởi các lý do sau:
Thứ nhất, chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng năm 2022 là khoảng 14%, cao hơn tăng trưởng tín dụng thực tế của cả 2 năm 2020 - 2021 (lần lượt là 12,17% và 13,61%).
Thứ hai, tín dụng những tháng đầu năm 2022 tăng nhanh so với cùng kỳ nhiều năm trước phù hợp với diễn biến phục hồi của nền kinh tế và tập trung vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ. Đến ngày 31/8/2022, tín dụng tăng 9,95% so với cuối năm 2021 - là mức tăng cao so với cùng kỳ nhiều năm trở lại đây. Trong đó: Cơ cấu tín dụng tiếp tục tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, phù hợp với đóng góp và tăng trưởng của các ngành kinh tế trong GDP; tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên tăng trưởng tốt, cao hơn cùng kỳ năm trước, một số lĩnh vực có mức tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng tín dụng chung; tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát chặt chẽ.
Thứ ba, áp lực lên vốn tín dụng ngân hàng tăng cao cho quá trình phục hồi kinh tế trong khi thị trường vốn chưa phát triển tương xứng với yêu cầu của nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh áp lực rủi ro lạm phát gia tăng. Xu hướng tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam tăng nhanh trong giai đoạn gần đây, đặc biệt từ năm 2020 (2021: 124% GDP), tiềm ẩn rủi ro đối với hệ thống tài chính. Các tổ chức quốc tế (IMF, WB), tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc gia đều cảnh báo về tỷ lệ này của Việt Nam. Theo đánh giá của WB, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam thuộc hàng cao nhất thế giới (đến cuối năm 2021 tỷ lệ này đã đạt 124%). Mới đây ngày 06/9/2022, mặc dù Moody’s nâng mức tín nhiệm quốc gia của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, nhưng tiếp tục cảnh báo tỷ lệ tín dụng trong nước/GDP và tỷ lệ tổng tài sản của ngân hàng trong nước/GDP đã tăng lần lượt lên 124% và 187% trong năm 2021, là một trong những tỷ lệ cao nhất trong số quốc gia xếp hạng Ba và Baa.
Thứ tư, áp lực lạm phát có xu hướng tăng trong năm 2022 gây thách thức lớn đối với công tác điều hành chính sách tiền tệ của NHNN, trong đó có điều hành tín dụng để vừa hỗ trợ phục hồi kinh tế, nhưng phải đảm bảo kiểm soát lạm phát, đảm bảo hoạt động của các TCTD an toàn. Từ đầu năm 2022, lạm phát thế giới tăng nhanh do giá nhiều hàng hóa, nguyên nhiên vật liệu trên thế giới leo thang bắt nguồn từ xung đột Nga - Ukraine và tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu. Áp lực lạm phát tăng cao trên toàn cầu tác động đến cuộc sống người dân và nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô tại nhiều quốc gia, khiến hầu hết các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới đều thực hiện các biện pháp đẩy nhanh tiến trình thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát.
Thứ năm, tỷ lệ dư nợ tín dụng/huy động vốn thị trường 1 đối với VND của toàn hệ thống hiện ở mức rất cao trong những năm gần đây (đạt 99,1%).
Thứ sáu, do tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, các tổ chức quốc tế (IMF, WB, Fitch Ratings, S&P) cảnh báo khả năng suy giảm chất lượng tài sản, nguy cơ nợ xấu phát sinh, tiềm ẩn rủi ro an toàn hệ thống và mất ổn định kinh tế vĩ mô.
Theo NHNN, thời gian tới sẽ tiếp tục theo dõi sát diễn biến vĩ mô, tài chính, tiền tệ trong và ngoài nước, điều hành theo các nội dung đã đề ra tại Chỉ thị số 01, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế không chủ quan với rủi ro lạm phát để kiểm soát quy mô, tăng trưởng gắn với chất lượng tín dụng. Chỉ đạo các TCTD hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Hà Thành (Hà Nội)