Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều thách thức, khó khăn với nguy cơ suy giảm tăng trưởng trước tác động thắt chặt chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương trong nỗ lực kiểm soát lạm phát toàn cầu, kinh tế vĩ mô trong nước tiếp tục được đảm bảo ổn định, tăng trưởng kinh tế phục hồi, lạm phát được kiểm soát. Có thể nói, nền kinh tế trong nước đạt được những thành tựu lội ngược dòng đáng ghi nhận, được nhiều tổ chức quốc tế đánh giá cao. Đóng góp vào thành công đó, điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đóng vai trò quan trọng.
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, GDP 9 tháng năm 2022 tăng 8,83% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất của 9 tháng trong giai đoạn 2011 - 2022, các hoạt động sản xuất, kinh doanh dần lấy lại đà tăng trưởng, chính sách phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ đã phát huy hiệu quả. Lạm phát 9 tháng đầu năm 2022, tuy có những áp lực gia tăng đáng kể nhưng hiện vẫn đang được kiểm soát ở mức thấp hơn so với lạm phát nhiều quốc gia trên thế giới. Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 tăng 4,01% và so với cùng kỳ năm trước tăng 3,94%. CPI bình quân quý III/2022 tăng 3,32% so với quý III/2021. Bình quân 9 tháng năm 2022, CPI tăng 2,73% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 1,88%. Mặc dù chịu áp lực gia tăng nhưng lạm phát năm 2022 nhiều khả năng vẫn được kiểm soát dưới mức mục tiêu 4%.
Điều hành lãi suất, tỷ giá, tín dụng linh hoạt trong bối cảnh nhiều thách thức
Trong 8 tháng đầu năm 2022, NHNN giữ nguyên các mức lãi suất điều hành trong bối cảnh lãi suất thế giới tăng nhanh (tính từ đầu năm 2022 đến nay, có tổng cộng 262 lượt tăng lãi suất trên toàn cầu) và áp lực lạm phát trong nước gia tăng, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp cận nguồn vốn từ NHNN với chi phí thấp; chỉ đạo TCTD tiết giảm chi phí hoạt động để tiếp tục phấn đấu giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn.
Tuy nhiên, trong bối cảnh xu hướng lạm phát quốc tế tiếp tục ở mức cao, Fed tăng lãi suất nhanh, mạnh và dự báo duy trì trên 4%/năm sau năm 2023, để tiếp tục thực hiện các biện pháp nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi kinh tế, ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt, phối hợp đồng bộ các công cụ và giải pháp chính sách tiền tệ. Theo đó, ngày 23/9/2022, NHNN điều chỉnh tăng 1%/năm lãi suất điều hành; tăng 0,3 - 1% lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND tại TCTD1; giữ nguyên trần lãi suất cho vay đối với lĩnh vực ưu tiên. Đây là giải pháp kịp thời, phù hợp với xu hướng chung trên toàn thế giới để ưu tiên kiểm soát lạm phát, giữ ổn định tỷ giá.
Theo đó, trần lãi suất huy động được nới lên giúp lãi suất thực tiếp tục dương, người gửi tiền tiếp tục gửi tiền vào hệ thống ngân hàng, qua đó giúp hệ thống ngân hàng đảm bảo được nguồn vốn trong khi tỷ lệ dư nợ tín dụng/tiền gửi bằng VND đã ở mức cao ngay từ đầu tháng có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản. Đồng thời nhờ tiếp tục huy động được nguồn vốn, hệ thống ngân hàng có đủ nguồn vốn để hỗ trợ quá trình phục hồi kinh tế.
Trong số trần lãi suất điều chỉnh tăng thì NHNN tăng lãi suất điều hành và trần lãi suất tiền gửi, đồng thời giữ nguyên trần lãi suất cho vay. Điều này thể hiện việc điều hành của NHNN đã hướng đến các mục tiêu ổn định mặt bằng lãi suất cho vay. Đồng thời, NHNN tiếp tục vận động các TCTD tiếp tục rà soát để tiết giảm các chi phí hoạt động. Qua đó, tạo điều kiện về mặt tài chính để giữ ổn định mặt bằng lãi suất cho vay hỗ trợ người dân và doanh nghiệp trong thời gian tới.
Trong điều hành tín dụng, ngay từ đầu năm 2022, để góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế khoảng 6 - 6,5%, lạm phát bình quân khoảng 4%, tại Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 13/01/2022 (Chỉ thị 01), NHNN tiếp tục điều hành giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD theo định hướng mức tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống khoảng 14%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế; chỉ đạo TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.
Việc xây dựng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng được NHNN dựa trên các mô hình khoa học, được hỗ trợ kỹ thuật từ Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và các phương pháp tính toán khoa học, theo thông lệ quốc tế. Chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng của hệ thống TCTD được NHNN linh hoạt điều chỉnh hằng năm và từng thời kỳ đảm bảo bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ, phù hợp với cân đối tổng thể các nguồn vốn khác của nền kinh tế và trên cơ sở đề nghị của TCTD để đảm bảo cung ứng đủ, kịp thời vốn tín dụng phù hợp với khả năng hấp thụ của nền kinh tế nhằm phục vụ tăng trưởng bền vững. Chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng từ sau năm 2011 được NHNN đặt ra thấp hơn nhiều so với kết quả thực hiện giai đoạn 2006 - 2010 và có xu hướng giảm dần.
Diễn biến các chỉ tiêu tiền tệ đến thời điểm hiện tại phù hợp với mục tiêu điều hành của NHNN. Tính đến ngày 26/9/2022, tín dụng toàn nền kinh tế tăng 10,83% so với cuối năm 2021 và tăng 17,28% so với cùng kỳ 2021, tín dụng tăng theo đà hồi phục của nền kinh tế và chảy vào các lĩnh vực ưu tiên, sản xuất, kinh doanh.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Thị trường ngoại hối trong nước tương đối ổn định, các giải pháp chính sách của NHNN góp phần ổn định thị trường trong bối cảnh các đồng tiền khác mất giá mạnh so với USD, qua đó tạo niềm tin của người dân và doanh nghiệp đối với VND.
Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng cũng quyết liệt triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất 2% từ nguồn ngân sách nhà nước, nhằm giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn rẻ, phục hồi sản xuất, kinh doanh. Trước đó, ngành Ngân hàng đã triển khai các chính sách về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ… nhằm tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19.
Những kết quả trong công tác điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng của NHNN trong năm 2022 nói riêng và nhiều năm trước đó đã đóng góp vào việc Việt Nam trở thành hội viên của tổ chức Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (Bank for International Settlements - BIS) vào năm 2020. Thực tế, BIS có quy định rất chặt chẽ trong việc kết nạp hội viên, chỉ kết nạp thêm hội viên trên cơ sở chọn lọc các nền kinh tế có vai trò quan trọng và theo chiến lược, định hướng mở rộng vai trò của BIS trên toàn cầu. Chính vì vậy, việc kết nạp hội viên của BIS là rất hạn chế, thông thường 8 - 10 năm mới tiến hành kết nạp hội viên một lần, lần gần nhất là năm 2011. Các tiêu chí đưa ra để cân nhắc khi kết nạp hội viên bao gồm: (i) Quy mô, trình độ phát triển của nền kinh tế; và (ii) Trình độ quản trị của ngân hàng trung ương/cơ quan quản lý tiền tệ quốc gia. Hiện nay, châu Á đã có thành viên là các quốc gia lớn như Nhật bản, Hàn quốc, Trung quốc, Ấn độ. Trong khối ASEAN, các nước Inđônêsia, Thái Lan, Malaysia, Phillipines và Singapore đã là thành viên của BIS.
Tổ chức quốc tế, chuyên gia đánh giá cao điều hành chính sách tiền tệ của NHNN
Các nhà đầu tư quốc tế tiếp tục đánh giá cao về sự ổn định kinh tế vĩ mô và triển vọng kinh tế của Việt Nam. Một số tổ chức quốc tế đồng loạt nâng mức xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam nhờ triển vọng tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, những cải thiện trong quản lý nợ công và vị thế đối ngoại tích cực giúp chống chịu với các cú sốc bên ngoài. Việt Nam được kỳ vọng sẽ tiếp tục thu hút dòng vốn FDI mạnh mẽ, hưởng lợi từ quá trình tái cấu trúc chuỗi cung ứng và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu. S&P (tháng 5/2022) nâng mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam từ BB lên BB+ triển vọng Ổn định. Moody’s (tháng 9/2022) nâng mức xếp hạng tín nhiệm cho Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2 triển vọng Ổn định. Đây là các tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế uy tín, luôn rất chặt chẽ trong quá trình nâng hạng cho các nước. Kết quả nâng hạng này là sự ghi nhận tốt cho những nỗ lực điều hành chính sách của Chính phủ trong thời gian qua.
Ông Francois Phainchaud, Trưởng Văn phòng Đại diện IMF tại Việt Nam nhận định Việt Nam đang phục hồi rất tốt. Các chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội được triển khai mạnh mẽ, hiệu quả. Việt Nam đã duy trì chính sách tỷ giá ổn định, cho phép VND mất giá thấp hơn nhiều nước thông qua việc bán dự trữ ngoại hối, đồng thời để lãi suất trong ngắn hạn tăng, nhờ đó kiềm chế được lạm phát. Đặc biệt, NHNN đã có những nỗ lực để giảm lạm phát, giữ ổn định vĩ mô và các điều kiện tài chính cũng được điều hành chặt chẽ.
Cùng ý kiến trên, ông Andrew Jeffries, Giám đốc ADB tại Việt Nam cho rằng, Việt Nam đã có sự tự cường rất cao để đảm bảo được cân đối cho nền kinh tế. Sự thành công của Việt Nam mở ra triển vọng tốt đẹp đối với môi trường đầu tư và kinh doanh. Đồng thời, ông nhấn mạnh những nền tảng của nền kinh tế cũng đang được phục hồi nhanh, đặc biệt chính sách tài khóa và tiền tệ đã phát huy rất hiệu quả, tác động rất tích cực đến tiêu dùng. Ông đánh giá: “Việt Nam đã kiểm soát lạm phát thành công trong năm nay, bất chấp áp lực rất lớn từ việc giá năng lượng và giá hàng hóa toàn cầu tăng cao. Chính sách tiền tệ được Chính phủ thực hiện từ trước đến nay đã góp phần rất lớn vào thành công này, giúp kiểm soát nguồn cung tiền và đảm bảo nguồn cung tín dụng, giải quyết áp lực lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái, đồng thời cung cấp hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp để phục vụ quá trình phục hồi. Tôi đánh giá cao Việt Nam đã có một chính sách cân bằng rất tinh tế và những nỗ lực của NHNN cần được ghi nhận”
Theo TS. Trần Hoàng Ngân, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, phân tích việc điều hành chính sách tiền tệ trong thời điểm hiện nay là cực kỳ khó khăn và thách thức không chỉ ở Việt Nam mà cả các ngân hàng trung ương trên thế giới đều đau đầu làm sao giải quyết hài hòa giữa kiểm soát lạm phát nhưng lại chống được suy thoái kinh tế. Mỗi một quốc gia đều lựa chọn công cụ điều hành dựa trên điều kiện thực tế của quốc gia mình cho phù hợp. “Điều hành chính sách tiền tệ hướng tới ba mục tiêu. Thứ nhất là ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát hiện đang được kiểm soát tốt. Thứ hai là thúc đẩy phát triển kinh tế, giải quyết công ăn việc làm thì kinh tế đang tăng trưởng tốt. Thứ ba là ổn định an ninh tài khóa, hệ thống ngân hàng quốc gia ổn định, hệ thống của chúng ta đang ổn định. Từ kết quả trên cho thấy, điều hành chính sách tiền tệ đang đi đúng hướng”, TS. Trần Hoàng Ngân nói.
Đánh giá về điều hành tỷ giá của NHNN, ông Võ Hữu Hiển, Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) nhận định: “Nhờ giữ được tỷ giá và lạm phát, nên nợ công của Việt Nam không bị tác động tiêu cực trước sự mất giá của các loại tiền tệ khác so với USD, thậm chí còn giúp giảm dư nợ chính phủ so với cuối năm 2021. Cũng chính nhờ giữ vững được tỷ giá, nên trong 8 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu của nước ta đạt 250,8 tỷ USD, tăng 17,3%; kim ngạch nhập khẩu là 246,84 tỷ USD, tăng 13,6%; xuất siêu 3,96 tỷ USD. Nhờ giữ được nhịp độ tăng trưởng xuất - nhập khẩu ở mức rất cao mà lại còn xuất siêu nên Việt Nam càng có điều kiện kiểm soát được tỷ giá”.
Đồng quan điểm, TS. Trương Văn Phước - Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cho rằng, kiềm chế lạm phát chúng ta đạt được như ngày hôm nay có sự đóng góp rất thầm lặng của chính sách tỷ giá của NHNN, cùng với ổn định tỷ giá góp phần ngăn ngừa sự lan rộng của lạm phát trên thế giới tới Việt Nam. Ở Việt Nam, tín dụng là kênh chủ yếu cung ứng vốn cho nền kinh tế. Trước mắt, duy trì room tín dụng là rất quan trọng. Việc NHNN vừa thông báo bổ sung tăng trưởng tín dụng là rất thích hợp.
Có thể thấy, thời gian tới, việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Các ngân hàng trung ương lớn tiếp tục đẩy nhanh tiến trình thu hẹp nới lỏng chính sách tiền tệ, điều chỉnh tăng lãi suất nhanh và mạnh. Đồng USD tăng giá trên thị trường tiền tệ thế giới. Lạm phát trong và ngoài nước có xu hướng gia tăng do giá nguyên vật liệu thế giới tăng, chi phí vận chuyển tăng, nguồn cung gián đoạn. Mặt bằng lãi suất đã giảm ở mức thấp trong những năm trước đây và đang có xu hướng tăng trở lại chủ yếu do cầu tín dụng gia tăng khi kinh tế tăng trưởng trở lại.
Thời gian tới, NHNN cho biết sẽ tiếp tục điều hành chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát; duy trì ổn định vĩ mô, hỗ trợ phục hồi kinh tế; kêu gọi các TCTD tiết giảm chi phí hoạt động để phấn đấu giảm lãi suất cho vay, qua đó nhằm ổn định lãi suất cho vay để hỗ trợ doanh nghiệp, cá nhân phục hồi sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, đẩy mạnh triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất 2% theo quy định tại Nghị định số 31/2022/NĐ-CP về hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.
Trong điều hành tín dụng, NHNN tiếp tục chỉ đạo các TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, phù hợp theo hướng mở rộng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, tín dụng tiêu dùng với mức lãi suất hợp lý, đảm bảo an toàn vốn vay, hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế xã hội; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ rủi ro tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; tiếp tục đánh giá hoạt động tín dụng đối với ngành, lĩnh vực, vai trò, khả năng phục hồi, phát triển bền vững của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế để đề xuất giải pháp điều hành tín dụng phù hợp; kịp thời phối hợp các bộ, ngành liên quan xử lý khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện.
Đồng thời, NHNN tiếp tục chỉ đạo các TCTD tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong việc tiếp cận tín dụng, đáp ứng nhu cầu hợp pháp của người dân, góp phần hạn chế “tín dụng đen”; tăng cường phối hợp với các địa phương đẩy mạnh chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp; triển khai các chương trình tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đối với các ngành, lĩnh vực. Bên cạnh đó, NHNN phối hợp với các bộ, ngành tháo gỡ vướng mắc trong việc triển khai các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; đẩy mạnh triển khai nhiệm vụ của ngành Ngân hàng trong các Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) như CTMTQG xây dựng nông thôn mới, CTMTQG giảm nghèo bền vững, CTMTQG phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo Quyết định phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền; nghiên cứu, triển khai nhiệm vụ của ngành Ngân hàng thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
IMF khuyến nghị việc triển khai hỗ trợ phục hồi kinh tế thời gian tới của Việt Nam cần dựa chủ yếu vào chính sách tài khóa, trong khi chính sách tiền tệ cần thận trọng, chủ động thích ứng để đảm bảo kiểm soát lạm phát trước rủi ro ngày càng gia tăng.
1 Cụ thể: (i) Quyết định số 1606/QĐ-NHNN ngày 22/9/2022: Lãi suất tái cấp vốn tăng từ 4%/năm lên 5%/năm; lãi suất tái chiết khấu tăng từ 2,5%/năm lên 3,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN tăng từ 5%/năm lên 6%/năm. (ii) Quyết định số 1607/QĐ-NHNN ngày 22/9/2022 - trần lãi suất tiền gửi bằng VND tại các TCTD: Đối với tiền gửi không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1 tháng tăng từ 0,2%/năm lên 0,5%/năm, kỳ hạn 1 tháng - dưới 6 tháng tăng từ 4%/năm lên 5%/năm.
Tài liệu tham khảo:
1. https://www.gso.gov.vn
2. https://www.sbv.gov.vn
3.https://chinhphu.vn
Nguyễn Minh (
Hà Nội)