Việt Nam trước tác động của suy giảm vốn ODA
05/09/2019 30.335 lượt xem
Từ năm 2010, Việt Nam chính thức vươn lên trở thành quốc gia có thu nhập trung bình. Đây là một tín hiệu đáng mừng đối với nền kinh tế, song, cũng đặt ra bài toán khi vốn ODA - nguồn vốn cung cấp bởi các tổ chức chính phủ, phi chính phủ nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các quốc gia đang phát triển - không còn dồi dào. Với các ưu điểm là lãi suất thấp hơn lãi suất thương mại, thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài, phần viện trợ không hoàn lại chiếm tối thiểu 25%, Việt Nam vẫn luôn coi ODA là nguồn vốn quan trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực. Việc cắt giảm ODA, chắc chắn, sẽ tạo nên những áp lực không nhỏ cho ngân sách nhà nước và công cuộc phát triển, nhưng cũng không phải là không mang đến những mảng màu tích cực.
 
Khó khăn
 
Tại các nước kém và đang phát triển như Việt Nam, nguồn vốn ODA tiếp nhận chủ yếu được dùng để đầu tư cơ sở hạ tầng, các công trình trọng yếu, như các tuyến đường giao thông, các công trình năng lượng và công nghiệp, bệnh viện, trường học,… Tình trạng các nhà tài trợ đã, đang giảm dần và sẽ cắt hẳn viện trợ ảnh hưởng tới tiến độ thi công của các công trình đang xây dựng, hoặc làm hạn chế nguồn vốn đầu tư phát triển của nước tiếp nhận. Tốc độ phát triển và khả năng cạnh tranh do đó cũng sẽ bị ảnh hưởng. Đặc biệt trong trường hợp của Việt Nam, dù đã thoát nghèo, song, quá trình phát triển vẫn chưa thực sự ổn định và vững chắc, đất nước vẫn đang trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hoá, đời sống người dân chỉ vừa được cải thiện, cơ sở hạ tầng còn thô sơ, vai trò của ODA, do đó, là rất lớn trong việc cung cấp tiềm lực cho nền kinh tế. Ước tính, nguồn vốn dành cho đầu tư cơ sở hạ tầng chiếm tới 40% tổng vốn ODA. Xoay xở thế nào để tiếp tục đầu tư phát triển khi nguồn viện trợ này bị cắt giảm sẽ là một thách thức không nhỏ cho các nhà quản lý Việt Nam.

 
Để các DNTN được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi ODA một cách bình đẳng sẽ giúp tăng tính minh bạch, giảm sự cấu kết lợi ích nhóm, tham nhũng, khuyến khích chuyển giao công nghệ và phát triển khu vực kinh tế tư nhân
 
Với thực tế các nguồn viện trợ đang dần trở nên kém ưu đãi, lãi suất tăng lên, kỳ hạn vay giảm xuống, các điều kiện ràng buộc ngày càng nhiều, Việt Nam hiện đang và sẽ phải đối mặt với áp lực tăng cao của việc trả nợ. Theo thông tin từ Bộ Tài chính, bình quân Ngân sách Nhà nước (NSNN) trả nợ ODA khoảng 1 tỷ USD mỗi năm(1), thời điểm phải trả nhiều nhất sẽ vào năm 2022-2025. Đây là một thách thức không nhỏ trong bối cảnh ngành tài chính công của Việt Nam còn khá yếu, bao gồm nợ công tương đối cao và liên tục tăng, song hành cùng khu vực ngân hàng dễ bị tổn thương. Cụ thể, tình trạng thâm hụt ngân sách hiện đã kéo dài qua nhiều năm. Năm 2017, bội chi NSNN khoảng 174,3 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 3,48% so với GDP(2). Dù vẫn thấp hơn mức Quốc hội thông qua là 3.5% GDP, nhưng NSNN liên tục thâm hụt khiến việc giảm chi tiêu của chính phủ để đáp ứng nhu cầu trả nợ là rất khó khăn. Tăng thuế hoặc các loại phí nhằm tăng nguồn thu hay vay mới trả nợ cũ lại không phải là biện pháp lâu dài, nhất là khi thị trường tài chính Việt Nam còn tương đối non trẻ, chưa phát triển toàn diện. Chưa kể đến, Việt Nam có lượng dự trữ ngoại hối khá hạn chế, cắt giảm ODA sẽ phần nào gây nên sự thiếu hụt ngoại tệ, đi kèm những tác động từ bối cảnh toàn cầu sẽ dễ dàng dẫn đến việc mất ổn định của đồng bản tệ, quy mô nợ của Chính phủ cũng do đó mà tăng lên. 
 
Kể từ tháng 7/2017 khi Ngân hàng Thế giới chính thức ngừng cung cấp vốn IDA (vốn vay ưu đãi từ Hiệp hội Phát triển Quốc tế) cho Việt Nam, đi kèm những ảnh hưởng rõ ràng về mặt phát triển kinh tế là những lo ngại về tác động đối với phát triển xã hội. Chương trình IDA có sứ mệnh chính là giảm nghèo và bất bình đẳng trong việc hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Tại Việt Nam, nguồn vốn này thường được dành cho các chương trình giảm bất bình đẳng giới, thay đổi khí hậu, bảo vệ môi trường. Khi nguồn vốn vay trở nên kém ưu đãi, những dự án được ưu tiên ắt hẳn sẽ thiên về những hoạt động có khả năng thu hồi vốn cao, các dự án mang tính chất phục vụ mục tiêu xã hội sẽ khó có cơ hội cạnh tranh. Bên cạnh đó, "tốt nghiệp" ODA cũng có nghĩa nền kinh tế đã có bước phát triển nhất định, mà song hành chính là sự gia tăng bất bình đẳng trong xã hội. Không còn được tiếp cận với vốn IDA sẽ phần nào gây khó khăn cho quá trình giảm nghèo và bất bình đẳng, trong khi hậu IDA chính là thời điểm cần nhiều ưu tiên cho những lĩnh vực này. Bài học kinh nghiệm từ Thái Lan và Philippines vẫn còn nóng hổi, khi mà cả hai quốc gia này đã và đang phải đối phó với tình trạng chênh lệch giàu nghèo ngày càng trở nên sâu rộng sau hơn 20 năm "tốt nghiệp" IDA.
 
Thuận lợi
 
Giảm nguồn viện trợ từ các đối tác phát triển sẽ gây ra không ít khó khăn cho Việt Nam, tuy nhiên, không phải là điều bất ngờ, bởi nước ta cũng đã dự liệu và chuẩn bị tâm thế để đón nhận những tác động có thể xảy đến. Hơn nữa, đi kèm với những tác động tiêu cực cũng là cơ hội và thời cơ để Việt Nam có thể lạc quan trong bối cảnh này.
 
Thứ nhất, nguồn vốn viện trợ ưu đãi, giá rẻ luôn đi kèm những điều kiện, đòi hỏi nhằm bảo đảm lợi nhuận của những công ty từ nước tài trợ, qua đó làm mất đi hoặc giảm cơ hội, lợi nhuận của các công ty thuộc nước tiếp nhận ODA. Nước vay có thể phải dỡ bỏ dần hàng rào thuế quan đối với những mặt hàng của các nước cho vay, hoặc phải mua thiết bị, thuê dịch vụ, nhân sự từ các nước cho vay với chi phí tương đối cao. Chẳng hạn với các khoản vay từ Hàn Quốc, một trong các yêu cầu bắt buộc là nhà thầu phải là công ty Hàn Quốc hoặc liên danh mà công ty Hàn Quốc nắm giữ nhiều hơn 50% cổ phần. Hay trường hợp của Trung Quốc, nước tiếp nhận vốn ODA buộc phải cho phép đưa công nhân Trung Quốc sang thực hiện dự án. Nguồn ODA giảm dần nghĩa là những điều kiện này cũng sẽ bị tháo bỏ, cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước cũng nhờ vậy mà tăng lên, vốn đầu tư cho các chương trình, dự án có thể phần nào giảm xuống.
 
Thứ hai, trước những khoản vay đắt đỏ hơn, Việt Nam buộc phải tính toán để sử dụng nguồn vay một các hiệu quả nhất. Trên thực tế, tính hiệu quả của các dự án đầu tư bằng vốn ODA vẫn luôn là một vấn đề nóng, khi mà với tâm lý được cho không, nhiều đơn vị thực hiện dự án chưa có những tính toán chặt chẽ, gây ra nhiều thất thoát, lãng phí. Nghị định 52/2017/NĐ-CP về cho vay lại nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ đối với UBND tỉnh, Thành phố được coi là một trong những bước quan trọng chuẩn bị cho quá trình tốt nghiệp ODA của Việt Nam. Các địa phương khó khăn về ngân sách vẫn được cấp phát, nhưng các địa phương phát triển hơn như Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng… sẽ giảm mạnh vốn cấp phát đối với các dự án. Như vậy, các địa phương sẽ phải tính toán liệu nguồn vốn này có thể mang lại hiệu quả từ việc thu phí, thuế để trả nợ hay không, nếu dự án không hiệu quả, không thể trả nợ thì sẽ vay ít hơn. Nâng cao trách nhiệm của đơn vị tiếp nhận nguồn vốn phần nào sẽ giảm bớt được tình trạng xin viện trợ tràn lan nhưng sử dụng lại không mấy hiệu quả. 
 
Về dài hạn, khi cắt giảm nguồn vốn ODA, Việt Nam sẽ buộc phải tăng cường tính độc lập, tính tự lập trong hoạt động huy động vốn và hoạt động kinh doanh. Thay vì lệ thuộc vào viện trợ nước ngoài, Việt Nam sẽ phải tự lực vươn lên, phát huy đến mức tối đa năng lực nội tại của nền kinh tế. Bên cạnh đó, khi những nguồn vốn giá rẻ trở nên khan hiếm, người sử dụng vốn cũng phải trở nên khắt khe hơn để đảm bảo tính hiệu quả. Những thất thoát, lãng phí nhờ đó cũng sẽ được giám sát kỹ càng hơn và giảm bớt. 
 
Việt Nam cần làm gì? 
 
Những khó khăn mà tình trạng nguồn vốn viện trợ sụt giảm gây nên hoàn toàn có thể được khắc phục nếu Việt Nam chuẩn bị tốt cho quá trình tốt nghiệp ODA. Dự kiến, tổng nhu cầu huy động và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi thời kỳ 2016-2020 là rất lớn, khoảng 39,5 tỷ USD (ngoài 22 tỷ USD chuyển tiếp từ thời kỳ 2011 - 2015). Hiện tại, khoản vay dài nhất của Việt Nam có thời hạn đến năm 2055, bình quân thời gian các khoản nợ vay là 12,5 năm(3). Như vậy, trong vòng gần 40 năm nữa, Việt Nam vẫn tiếp tục phải trả nợ ODA. Tuy vậy, một kế hoạch chi tiết nhằm "tốt nghiệp" ODA trong vòng 15 - 20 năm tới là vô cùng cần thiết.
 
Khi nguồn vốn ODA chấm dứt, Việt Nam sẽ buộc phải tăng vay trong nước và vay thương mại ưu đãi nước ngoài để huy động thêm các nguồn lực. Nhưng hệ quả tất yếu là gánh nặng nợ công sẽ trở nên trầm trọng hơn, do nguồn vốn này chịu mức lãi suất cao hơn. Giải pháp đầu tiên vẫn là thắt lưng buộc bụng, siết chặt ngân sách chi tiêu dành cho bộ máy công quyền. Với các dự án đã ký kết hoặc đang thực hiện, cần tăng cường kiểm tra, giám sát bảo đảm hiệu quả đầu tư, thúc đẩy tiến độ thực hiện và nâng cao tỷ lệ giải ngân, tránh tình trạng kéo dài gây đội chi phí. Công tác chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí phải được đẩy mạnh hơn nữa. Với các chương trình, dự án sắp ký kết, cần ưu tiên cho các dự án đầu tư công quan trọng thuộc các lĩnh vực then chốt hoặc có khả năng thu hồi vốn. Thay vì vay nợ thuần tuý, các chương trình, dự án nên đi kèm những yếu tố mang giá trị lâu dài và quyết định trong công cuộc phát triển những chuyển giao, hỗ trợ về kinh nghiệm, ý tưởng, kiến thức chuyên môn, dữ liệu,... 
 
Bên cạnh đó, Chính phủ cần tăng cường mở rộng cửa với khối Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) trong việc thực hiện các dự án ODA. DNTN là động lực hết sức quan trọng thúc đẩy nền kinh tế, khi nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia thì tính công khai, minh bạch, cạnh tranh sẽ cao hơn, tạo ra môi trường bình đẳng hơn. Trao cơ hội cho DNTN tiếp cận nguồn vốn ODA sẽ giúp hạ cơn khát vốn của doanh nghiệp, giúp DN giảm chi phí vốn. Trên thực tế, khi lấy ý kiến đóng góp dự thảo Nghị định về quản lý sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức và vốn vay ưu đãi vào đầu năm 2018, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã từng đề xuất việc DNTN có thể tiếp cận với nguồn tín dụng từ vốn vay ODA hay vốn vay ưu đãi để thực hiện các dự án hợp tác công tư (PPP). Dẫu nội dung này sau đó không được chấp thuận và đưa vào Nghị định chính thức, đây cũng là một bước đi đáng mừng cho thấy “cánh cửa” đã phần nào hé mở. Để các DNTN được tiếp cận nguồn vốn ưu đãi ODA một cách bình đẳng sẽ giúp tăng tính minh bạch trong việc sử dụng ODA, giảm sự cấu kết lợi ích nhóm, tham nhũng, khuyến khích chuyển giao công nghệ và phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
 
Tăng cường hình thức hợp tác công tư (PPP) cũng là một phương án cần chú trọng để thu hút nguồn lực đầu tư, đồng thời tận dụng được những ưu thế sẵn có của khối tư nhân. Hiện nay, một số văn kiện pháp lý về PPP đã được ban hành, như Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức PPP và Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 17/3/2015 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư. Tuy nhiên, các văn kiện này vẫn còn hạn chế nhất định, chưa tạo được môi trường hấp dẫn, các phương thức đầu tư linh hoạt, thuận lợi cho các nhà đầu tư đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài cùng tham gia với các cơ quan Chính phủ trong việc thực hiện các dự án hạ tầng quan trọng của quốc gia. Do vậy, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, qua đó hoàn thiện cơ sở pháp lý, cơ chế quản lý, cơ chế trả nợ. 
 
Sau cùng, bản thân các đơn vị thực hiện dự án ODA, các cơ quan lãnh đạo và người dân cần ý thức được sự cần thiết, tính cấp bách của việc không phụ thuộc vào nguồn viện trợ nước ngoài và có mong muốn tốt nghiệp ODA càng sớm càng tốt. Như trường hợp của Hàn Quốc, đất nước nhận nguồn vốn hỗ trợ phát triển kể từ những năm 1960 luôn cho rằng đây là “nỗi hổ thẹn” và hạn chế nhận ODA đến mức tối đa. ODA đầu người đạt mức cao nhất trong thời kì 1960-1972 nhưng cũng chỉ khoảng 10USD, sau đó giảm dần. Chính phủ và người dân Hàn Quốc đã rất nỗ lực tham gia vào phát triển kinh tế, qua đó mang đến một thành tựu thần kì khi quốc gia này chính thức ngừng nhận viện trợ sau 30 năm và từ năm 1993 chuyển từ vai trò nước tiếp nhận sang nước tài trợ(4). Chỉ khi có ý thức tốt nghiệp ODA thì mới có động lực nâng cao hiệu quả sử dụng dòng vốn, tiến hành các bước chuẩn bị cần thiết cho giai đoạn hậu ODA.
 
Tài liệu tham khảo:
1. An Nhiên (2016), “Mỗi năm NSNN phải bố trí khoảng 1 tỷ USD để trả nợ nước ngoài”, http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/101-6980-moi-nam-nsnn-phai-bo-tri-khoang-1-ty-usd-de-tra-no-nuoc-ngoai.html.
2. Bộ Tài Chính, Báo cáo Tổng kết công tác Tài chính - Ngân sách Nhà nước năm 2017.
3. Khánh Huyền (2016), “Nhu cầu vốn ưu đãi giai đoạn 2016-2020 khoảng 39.5 tỷ USD” http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/nhip-song-tai-chinh/2016-02-19/nhu-cau-von-uu-dai-giai-doan-2016-2020-khoang-395-ty-usd-28807.aspx.
4. Trần Văn Thọ (2017), “Tiến tới tốt nghiệp ODA toàn phần”, Tạp chí Tia Sáng, http://tiasang.com.vn/-dien-dan/Tien-toi-%E2%80%9Ctot-nghiep%E2%80%9D-ODA-toan-phan-10748.

ThS. Phạm Mai Ngân
TS. Nguyễn Thị Kim Oanh

Nguồn: TCNH số 23/2018
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Nâng cao hiệu quả quản lý gian lận số tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nâng cao hiệu quả quản lý gian lận số tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
24/04/2024 232 lượt xem
Thời gian qua, quá trình số hóa diễn ra liên tục và mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và đã mang lại những lợi ích đáng kể cho sự ổn định của khu vực tài chính nói riêng, sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Nhờ quá trình này mà các tổ chức tài chính có khả năng cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính, ngân hàng với chi phí thấp hơn, giúp nâng cao trải nghiệm và khả năng tiếp cận sản phẩm, dịch vụ của khách hàng, tăng cường minh bạch trong giao dịch tài chính và phản ứng nhanh chóng với các cuộc khủng hoảng.
Chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức, doanh nghiệp - định hướng  phát triển trong thời đại 4.0
Chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức, doanh nghiệp - định hướng phát triển trong thời đại 4.0
23/04/2024 230 lượt xem
Dữ liệu đóng vai trò thiết yếu trong hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp. Việc chia sẻ dữ liệu mở ra những cơ hội mới, tạo thêm nhiều giá trị, đồng thời góp phần bồi đắp kho dữ liệu hiện có, khai phá tiềm năng tối ưu hóa và đổi mới mô hình kinh doanh.
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đám bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đám bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
19/04/2024 0 lượt xem
Do nhu cầu tài chính phục vụ cho quá trình chuyển đổi của các doanh nghiệp ngày càng cao nên thị trường tín dụng liên kết bền vững toàn cầu tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Việt Nam cần nhanh chóng thúc đẩy và mở rộng hoạt động cho vay nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp ở đa dạng ngành, nghề thực hiện chiến lược phát triển bền vững.
Thực hiện tăng trưởng xanh - Tiền đề cho phát triển bền vững của Việt Nam
Thực hiện tăng trưởng xanh - Tiền đề cho phát triển bền vững của Việt Nam
12/04/2024 1.050 lượt xem
Phát triển bền vững đang là mục tiêu quan trọng của Việt Nam trong những năm qua và trong tương lai, theo đó tăng trưởng xanh với sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường chính là tiền đề để thực hiện mục tiêu này.
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
10/04/2024 1.092 lượt xem
Bài viết đề xuất một số khuyến nghị về xây dựng, thực thi chính sách tín dụng liên kết bền vững để góp phần đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và chiến lược phát triển bền vững tại Việt Nam...
Thực tiễn triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Thực tiễn triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
05/04/2024 1.361 lượt xem
Nghiên cứu trình bày về tầm quan trọng của ESG (Environmental - môi trường, Social - xã hội, Governance - quản trị) trong quá trình phát triển bền vững của ngân hàng, thực tiễn triển khai các hoạt động về ESG, các kết quả đạt được và thách thức, từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩy triển khai ESG trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.
Tác động của minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Tác động của minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
03/04/2024 1.253 lượt xem
Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu tác động của tính minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate social responsibility - CSR) đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng.
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
02/04/2024 1.150 lượt xem
Bài viết dựa trên cơ sở tổng quan về giám sát tài chính, tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới để rút ra một số bài học và khuyến nghị đối với công tác giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước tại Việt Nam hiện nay.
Kinh nghiệm thực thi chính sách tài chính khí hậu trên thế giới và một số khuyến nghị cho Việt Nam
Kinh nghiệm thực thi chính sách tài chính khí hậu trên thế giới và một số khuyến nghị cho Việt Nam
01/04/2024 1.148 lượt xem
Một trong những vấn đề khó khăn nhất hiện nay đối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, đó là việc thiếu nguồn lực tài chính để ứng phó với biến đổi khí hậu, hay còn gọi là tài chính khí hậu...
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/03/2024 1.230 lượt xem
Để nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ NHNN phù hợp thông lệ quốc tế và các quy định về kiểm toán nội bộ của Việt Nam, một trong những yêu cầu hiện nay là nghiên cứu, rà soát, ban hành Sổ tay Kiểm toán nội bộ NHNN nhằm tập hợp, hệ thống hóa các quy định chung về kiểm toán nội bộ của NHNN.
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
25/03/2024 1.623 lượt xem
Trong kỉ nguyên số, Chatbot đóng vai trò vô cùng quan trọng và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, trong đó có lĩnh vực ngân hàng.
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
22/03/2024 2.375 lượt xem
Trong thị trường kinh tế, giao dịch phái sinh là một dạng hợp đồng dựa trên giá trị các loại tài sản cơ sở khác nhau như hàng hóa, chỉ số, lãi suất hay cổ phiếu (giấy tờ có giá).
Văn hóa số và lộ trình xây dựng
Văn hóa số và lộ trình xây dựng
11/03/2024 2.618 lượt xem
Hiện nay, quyết liệt chuyển đổi số, tạo dựng hệ sinh thái ngân hàng mở, tạo ra nền tảng phát triển bán lẻ, tăng doanh thu dịch vụ, gia tăng trải nghiệm của khách hàng là xu hướng chủ đạo của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam.
Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Nhìn từ bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay
Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Nhìn từ bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay
07/03/2024 3.670 lượt xem
Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ quốc gia có thu nhập thấp sang quốc gia có thu nhập trung bình. Song, những khó khăn nội tại và thách thức bên ngoài của nền kinh tế làm cho nguy cơ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình là có thể.
Động lực và kì vọng mới cho tương lai
Động lực và kì vọng mới cho tương lai
07/03/2024 2.475 lượt xem
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và phu nhân Lê Thị Bích Trân cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã bắt đầu chuyến công tác tham dự Hội nghị cấp cao đặc biệt kỷ niệm 50 năm quan hệ ASEAN - Australia; thăm chính thức Australia và New Zealand từ ngày 05 - 11/3/2024 theo lời mời của Thủ tướng Australia Anthony Albanese và Thủ tướng New Zealand Christopher Luxon.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?