Truyền thông chính sách của các ngân hàng trung ương trong thời kỳ lạm phát cao
11/11/2022 4.123 lượt xem
Tóm tắt: Hoạt động truyền thông của ngân hàng trung ương (NHTW) với công chúng có thể là phương thức hiệu quả để giảm kỳ vọng lạm phát trong thời kỳ lạm phát tăng đột biến. Đồng thời, việc giải thích dự báo của các chuyên gia NHTW ảnh hưởng đến kỳ vọng nhiều hơn là chỉ cung cấp các số liệu dự báo. Bài viết giới thiệu nghiên cứu của GS. Mathias Hoffmann, GS. Emanuel Moench và các cộng sự (2022) về tác động của truyền thông chính sách NHTW trong việc giảm lạm phát kỳ vọng của hộ gia đình trong thời kỳ lạm phát cao.
 
Từ khóa: Truyền thông chính sách, lạm phát kỳ vọng, ngân hàng trung ương.
 
CENTRAL BANK POLICY COMMUNICATION DURING PERIODS OF HIGH INFLATION
 
Abstract: Central bank communication with the public can be an effective way to reduce inflation expectations during periods of high inflation. At the same time, the interpretation of forecasts by central bankers affects inflation expectations more than simply providing forecast figures. The article introduces the research of Prof. Mathias Hoffmann, Prof. Emanuel Moench et al (2022) on the impact of policy communication by central banks in reducing expected inflation of households during periods of high inflation.
 
Keywords: Policy communication, inflation expectations, central bank.
 
1. Đặt vấn đề và phương pháp nghiên cứu
 
Do giá tiêu dùng tăng và tình trạng thiếu cung ngày càng trầm trọng, NHTW châu Âu (ECB) đã nâng dự báo lạm phát ở khu vực đồng Euro hai lần trong năm nay. Đặc biệt, dự báo lạm phát cho năm 2022 hiện tại đã được nâng lên. Nếu như vào tháng 3/2022, dự báo lạm phát tăng lên 5,1% so với mức dự báo 3,2% đưa ra ​​vào tháng 12/2021, đến tháng 6/2022 mức dự báo lạm phát tăng lên 6,8%. Nhiều nhà nghiên cứu cũng thừa nhận rằng việc giảm lạm phát có thể kéo dài hơn.  Tháng 3/2022, ECB dự báo lạm phát năm 2023 ở khu vực đồng Euro nâng lên 2,1% từ mức dự báo 1,8% được tổ chức này đưa ra trong tháng 12/2021 và vào tháng 6/2022, con số dự báo tăng lên 3,5%. Tuy nhiên, đại diện của Eurosystem (ECB và NHTW của các nước thành viên khu vực đồng Euro) vẫn kỳ vọng mức lạm phát sẽ tiệm cận mục tiêu của ECB là 2% trong trung hạn. Dự báo năm 2024, mặc dù đã được điều chỉnh, gần với giá trị này - vào tháng 3/2022, mức dự báo được tăng lên 1,9% từ 1,8% được đưa ra trong tháng 12/2021 và đến tháng 6/2022 mức lạm phát được dự báo tăng lên 2,1%.
 
Kể từ năm 2021, kỳ vọng lạm phát của các hộ gia đình Đức cũng đã tăng lên đáng kể. Từ tháng 01/2021 đến tháng 02/2022, giá trị trung bình của lạm phát dự kiến ​​trong một năm tăng đều đặn từ 2% lên 5% và vào tháng 6/2022, con số này đã tăng lên 8% (Biểu đồ 1).
 
Biểu đồ 1: Lạm phát kỳ vọng của hộ gia đình trong 12 tháng tới


Kỳ vọng lạm phát trong 5 và 10 năm tới cũng đã tăng lên đáng kể, mặc dù chúng vẫn ở mức thấp hơn - lần lượt là 5% và 4% (Biểu đồ 2 và 3).
 
Biểu đồ 2: Lạm phát kỳ vọng của hộ gia đình trong 5 năm tới



Biểu đồ 3: Lạm phát kỳ vọng của hộ gia đình trong 10 năm tới


Nghiên cứu của GS. Mathias Hoffmann, GS. Emanuel Moench và các cộng sự (2022) đã phân tích hai khía cạnh hình thành các kỳ vọng lạm phát của hộ gia đình. Thứ nhất, liệu các hộ gia đình coi tỉ lệ lạm phát cao hiện nay là tạm thời hay vĩnh viễn. Thứ hai, các dự báo lạm phát của ECB có thực sự làm giảm kỳ vọng lạm phát của hộ gia đình hay không.
 
Phân tích khía cạnh đầu tiên dựa trên câu trả lời của các đáp viên người Đức đối với các câu hỏi tiêu chuẩn và các câu hỏi bổ sung trong cuộc khảo sát trực tuyến hộ gia đình ở Bundesbank vào tháng 3/2022 (Bundesbank Online Panel Households, BOP-HH, xem hộp). Nghiên cứu đã nhận được khoảng 5.000 câu trả lời về tỷ lệ lạm phát trong tương lai - trong 12 tháng (ngắn hạn), trong 2 - 3 năm (trung hạn) và trong 5 - 10 năm (dài hạn).
 
Để phân tích khía cạnh thứ hai, nghiên cứu đã tiến hành một cuộc khảo sát trong khuôn khổ BOP-HH dưới dạng một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên1. Nhờ vậy, kết quả của cuộc khảo sát cho phép xem xét đường đi của lạm phát mà các hộ gia đình mong đợi và nó bị ảnh hưởng như thế nào bởi hoạt động truyền thông chính sách của NHTW.

 
Khảo sát hộ gia đình Đức của Bundesbank
 
Kể từ năm 2019, Bundesbank đã theo dõi kỳ vọng lạm phát của các hộ gia đình bằng cách thực hiện các cuộc khảo sát trực tuyến. Kể từ tháng 4/2020, định kỳ thực hiện là một lần/tháng, với 2.500 đến 5.000 người tham gia vào mỗi đợt. Những đáp viên được yêu cầu ước tính các động lực trong tương lai của lạm phát, đưa ra dự báo về chi phí bất động sản nhà ở và lãi suất ở Đức, trong mỗi đợt khảo sát, cũng có các câu hỏi về các khoản chi đã được lập và đã lên kế hoạch. Ngoài các mục tiêu chuẩn trong bảng hỏi, đáp viên có thể trả lời các câu hỏi bổ sung của các nhà nghiên cứu từ Bundesbank và các nhà nghiên cứu bên ngoài. Việc tham gia khảo sát là tự nguyện, đáp viên từ 16 tuổi trở lên được phép tham gia.
 

 
Nghiên cứu thiết kế các câu hỏi khảo sát theo phương pháp thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên. Ở bước thứ nhất, tất cả đáp viên được thông báo về mục tiêu lạm phát của ECB. Sau đó, họ được yêu cầu ước tính xác suất đạt được mục tiêu trung hạn: Để thực hiện việc này, những đáp viên phân bố xác suất lạm phát nằm trong một khoảng nhất định (từ dưới 1% đến hơn 5%) về trung hạn. Nghiên cứu giới hạn các ước tính xác suất để tổng của chúng bằng 100. Trong bước thứ hai, các đáp viên được chia ngẫu nhiên thành một số nhóm. Mỗi nhóm nhận các thông điệp khác nhau (định lượng hoặc định tính) từ ECB, liên quan đến dự báo lạm phát trung hạn. Còn nhóm đối chứng sẽ không nhận bất cứ thông điệp nào từ ECB. Sau đó, toàn bộ các đáp viên lại được yêu cầu ước tính lạm phát trong một năm, 2 - 3 năm và 5 - 10 năm.
 
Cụ thể, hai nhóm đã nhận thông tin định lượng về dự báo lạm phát của ECB công bố vào tháng 3/2022. Ngoài ra, một trong hai nhóm này đã nhận được thông tin về việc điều chỉnh dự báo trong tháng 3/2022 so với dự báo trước đó, được công bố vào tháng 12/2021 (nhóm này được gọi là “định lượng nâng cao”). Hai nhóm còn lại được tiếp cận với các giải thích về các dự báo của nhà kinh tế trưởng ECB, Philip Lane, người được nhiều phương tiện truyền thông trích dẫn. Một nhóm (được gọi là “định tính nâng cao”) được cung cấp thông tin rằng, Lane kỳ vọng lạm phát sẽ giảm trong suốt năm 2022 và lạm phát trong năm 2023 và 2024 sẽ giảm xuống dưới mức mục tiêu. Một nhóm khác cũng được biết thêm rằng, Lane không (chưa) thấy bất kỳ bằng chứng nào về hiệu ứng vòng hai của lạm phát (second-round effects on inflation)2.
 
2. Kết quả và thảo luận

Biểu đồ 4: Phân bố xác suất lạm phát kỳ vọng của các hộ gia đình 
trước khi được ECB báo cáo về triển vọng lạm phát


Nguồn: Mathias Hoffmann, Emanuel Moench và các cộng sự (2022)
 
Biểu đồ 4 minh họa phân bố xác suất theo đánh giá của các hộ gia đình về lạm phát ngắn hạn (xanh đậm), trung hạn (xanh lam) và dài hạn (xanh nhạt) trước khi được ECB thông báo về triển vọng lạm phát. Lạm phát kỳ vọng trong ngắn hạn nghiêng hẳn về phía tăng, bình quân những người được hỏi cho rằng với xác suất 33%, lạm phát trong một năm sẽ vượt quá 5% và với xác suất khoảng 80%, lạm phát sẽ cao hơn 3%. Tuy nhiên, lạm phát kỳ vọng trong trung hạn thấp hơn đáng kể: Xác suất lạm phát trên 5% ước tính khoảng 20%, lạm phát trên 3% - khoảng 70%. Trong thời hạn 10 năm, lạm phát kỳ vọng thậm chí còn thấp hơn (xác suất lạm phát trên 5% được ước tính vào khoảng 15% và trên 3% - khoảng 55%). Tuy nhiên, hầu hết những người được hỏi đều kỳ vọng lạm phát sẽ cao hơn mục tiêu 2% của ECB. Từ những số liệu này, nghiên cứu của GS. Mathias Hoffmann, GS. Emanuel Moench và các cộng sự (2022) kết luận rằng, vào tháng 3/2022, các hộ gia đình Đức phần lớn coi lạm phát cao là tạm thời, nhưng đồng thời, cũng nhận thấy rủi ro đáng kể rằng nó sẽ duy trì trên mục tiêu của ECB trong một thời gian dài.
 
Sau khi nhận được các kết luận trên, nghiên cứu của GS. Mathias Hoffmann, GS. Emanuel Moench và các cộng sự (2022) đặt ra mục tiêu tìm hiểu liệu hoạt động truyền thông chính sách của ECB có khả năng dịch chuyển mức kỳ vọng lạm phát gần hơn với mục tiêu lạm phát hay không. Để thực hiện điều này, nghiên cứu đã so sánh phản hồi của nhiều nhóm đáp viên khác nhau được chọn ngẫu nhiên về động lực lạm phát kỳ vọng ​​của họ trước và sau khi tiếp cận với thông tin chính sách của ECB định tính (bằng lời nói) và định lượng (bằng số) có chứa các dự báo lạm phát (xem Biểu đồ 5, 6, 7).

Biểu đồ 5: Lạm phát kỳ vọng 1 năm của các đáp viên trước 
và sau khi được tiếp cận thông tin chính sách


Nguồn: Mathias Hoffmann, Emanuel Moench và các cộng sự (2022)


Biểu đồ 6: Lạm phát kỳ vọng 2 - 3 năm của các đáp viên 
trước và sau khi được tiếp cận thông tin chính sách


Nguồn: Mathias Hoffmann, Emanuel Moench và các cộng sự (2022)
 
Theo Biểu đồ 5, 6, 7, những người trả lời nhận được một trong hai loại thông tin đã điều chỉnh giảm đáng kể kỳ vọng lạm phát cao của họ trong năm tới. Ví dụ: Xác suất lạm phát trên 5% giảm từ 1/3 xuống còn 1/4 (Biểu đồ 5). Điều tương tự cũng xảy ra với kỳ vọng trung hạn, mặc dù ở mức độ thấp hơn (ước tính xác suất lạm phát trên 5% trong 2 - 3 năm đã giảm từ 20% xuống còn khoảng 15%, Biểu đồ 6). Tương tự, truyền thông chính sách của ECB làm giảm kỳ vọng lạm phát cao trong dài hạn (5 - 10 năm, Biểu đồ 7).

Biểu đồ 7: Lạm phát kỳ vọng 5 - 10 năm của các đáp viên 
trước và sau khi được tiếp cận thông tin chính sách


Nguồn: Mathias Hoffmann, Emanuel Moench và các cộng sự (2022)

Tiếp theo, nghiên cứu của GS. Mathias Hoffmann, GS. Emanuel Moench và các cộng sự (2022) đánh giá tác động của các loại hình truyền thông chính sách khác nhau đối với lạm phát kỳ vọng của các đáp viên. Nghiên cứu xác định mức lạm phát kỳ vọng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bình quân cho tất cả các nhóm, mỗi nhóm nhận được các thông báo khác nhau từ ECB và tách chúng khỏi các chỉ số của nhóm kiểm soát (nhóm không tiếp cận với bất kỳ thông báo nào từ ECB), trên cơ sở đó, nghiên cứu rút ra ba kết luận.
 
Một là, lạm phát kỳ vọng giảm trên các kỳ hạn. Tỷ lệ lạm phát kỳ vọng trung bình giảm từ mức 4,28% cho kỳ hạn một năm xuống mức 3,78% và 3,38% cho kỳ hạn 2 - 3 năm và 5 - 10 năm tương ứng. Tuy nhiên, trong khi mức giảm 90 điểm cơ bản này là đáng kể, thì kỳ vọng lạm phát trung bình vẫn được nâng cao ngay cả trong dài hạn.
 
Hai là, tất cả các loại hình truyền thông (cả định lượng và định tính) đã góp phần giảm kỳ vọng lạm phát cao và giảm đáng kể về mặt thống kê.
 
Thứ ba, bằng cách so sánh tác động của việc tiếp cận với các loại hình thông điệp khác nhau, nghiên cứu nhận thấy rằng, thông tin chứa các đánh giá định tính có tác động mạnh hơn nhiều so với thông tin định lượng. Nếu thông tin định tính làm giảm lạm phát kỳ vọng khoảng 47 điểm cơ bản cho năm hiện tại, 28 điểm cơ bản cho trung hạn và 23 điểm cơ bản về dài hạn thì thông tin định lượng chỉ làm giảm lạm phát kỳ vọng ở các mức tương ứng là 17; 18 và 11 điểm cơ bản.
 
Trong một bài báo được xuất bản vào năm 2022, GS. Lena Drager và các cộng sự đã chỉ ra rằng việc cung cấp cho các đáp viên những thông tin về lạm phát kỳ vọng từ các nhà dự báo chuyên nghiệp, những người tập trung vào lạm phát cao thay vì mục tiêu của ECB chỉ làm giảm lạm phát kỳ vọng ngắn hạn. Ngoài ra, Drager và các cộng sự (cũng sử dụng thử nghiệm RCT (Randomised Control Trial) để thu thập dữ liệu từ cuộc khảo sát BOP-HH của Bundesbank vào tháng 9/2021) nhận thấy rằng, ảnh hưởng của truyền thông bằng văn bản đối với mức lạm phát kỳ vọng là khá hạn chế.
 
Mặt khác, nghiên cứu phát hiện rằng việc mở rộng truyền thông chính sách với các thông điệp bổ sung, như dữ liệu cập nhật các dự báo trước đó của ECB trong trường hợp của nhóm “định lượng nâng cao” hoặc các nhận định cho rằng các hiệu ứng của lạm phát vòng hai chưa quan sát thấy, trong trường hợp của nhóm “định tính nâng cao”, không làm tăng hiệu quả truyền thông. Điều này cho thấy rằng, những người tham gia khảo sát sẵn sàng hoặc chỉ có thể xử lý một lượng thông tin văn bản hạn chế. Nhận định này phù hợp với kết luận của GS. Olivier Coibion và các cộng sự (2019), khi phát hiện rằng việc các đáp viên đọc các tuyên bố của Ủy ban Thị trường Mở (FOMC), Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sau cuộc họp có mức ảnh hưởng đến kỳ vọng lạm phát hộ gia đình không lớn hơn so với việc chỉ tiếp cận với các dự báo lạm phát của FOMC.
 
Trong nghiên cứu gần đây của Enzo Rossi và các cộng sự (2022), bằng dữ liệu khảo sát 488.000 công dân khu vực Euro từ năm 1999 đến 2019, đã tìm thấy bằng chứng thuyết phục rằng, tần suất giao tiếp nhiều hơn, được đo bằng số lượng bài phát biểu của các đại diện hệ thống NHTW các nước châu Âu có ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin của công dân đối với ECB. Tuy nhiên, nghiên cứu của GS. Mathias Hoffmann, GS. Emanuel Moench và các cộng sự (2022) lại cho thấy rằng niềm tin cao hơn có liên quan đến việc tăng cường tác động của truyền thông ECB đối với kỳ vọng lạm phát. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu trước đây cũng của nhóm tác giả GS. Mathias Hoffmann, Lora Pavlova, Guido Schultefrankenfeld (2021) rằng, việc thông báo cho các hộ gia đình về chiến lược chính sách tiền tệ của ECB có thể ảnh hưởng tích cực đến quá trình định hình lạm phát kỳ vọng của họ và các hộ gia đình có mức độ tin tưởng cao hơn vào NHTW sẽ điều chỉnh kỳ vọng lạm phát của họ nhiều hơn. 
 
3. Kết luận
 
Nhìn chung, các kết quả phân tích trong nghiên cứu của GS. Mathias Hoffmann, GS. Emanuel Moench và các cộng sự (2022) cho thấy rằng truyền thông có mục tiêu của NHTW có thể là một phương pháp hiệu quả để giảm lạm phát kỳ vọng của hộ gia đình trong thời kỳ lạm phát cao. Hơn nữa, những từ ngữ giải thích các dự báo lạm phát dường như hoạt động tốt hơn nhiều so với việc chỉ định lượng lạm phát trong tương lai.
 
Bản thân các cựu quan chức cấp cao của ECB cũng thừa nhận rằng, việc giao tiếp với công chúng có thể được cải thiện, chẳng hạn như thông qua việc sử dụng mạng xã hội (bằng chứng là cuộc khảo sát 27 cựu thành viên Hội đồng Quản trị của ECB, do người đứng đầu bộ phận nghiên cứu chính sách tiền tệ của ECB, Michael Ehrman và các cộng sự thực hiện vào năm 2020). Ngoài ra, những giải thích bằng lời nói dường như là một phương tiện hiệu quả hơn để giải quyết “sự khác biệt trong kiến ​​thức về chính sách tiền tệ  của các hộ gia đình” (mà các NHTW cần phải tính đến khi giao tiếp với công chúng, vì không phải tất cả các đại diện của công chúng đều nhận thức rõ về các mục tiêu của chính sách tiền tệ, như nghiên cứu của Jacob De Haan và cộng sự (2015) ở Hà Lan đã phát hiện). Mặc dù chủ đề nêu trên cần tiếp tục nghiên cứu thêm, nhưng những phát hiện trong nghiên cứu của GS. Mathias Hoffmann, GS. Emanuel Moench và các cộng sự (2022) có thể cung cấp một số định hướng hữu ích và có giá trị trong lĩnh vực này.
 

1 Thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên (Randomised control trial, RCT): So sánh kết quả của hai nhóm người được chọn ngẫu nhiên - thực nghiệm và đối chứng; lựa chọn ngẫu nhiên cho phép tránh sự chủ quan, định kiến và xác định chính xác hơn mối quan hệ nhân quả giữa một hành động nhất định và kết quả của nó.
2 Sự gia tăng giá mà các hộ gia đình phải trả cho năng lượng - như xăng, dầu sưởi và khí đốt tự nhiên - thể hiện sự gia tăng chi phí sinh hoạt và lạm phát giá cả. Tác động trực tiếp này của giá năng lượng cao hơn đối với chi phí sinh hoạt đôi khi được gọi là hiệu ứng đầu tiên đối với lạm phát. Ngoài ra, chi phí năng lượng cao hơn có thể có tác động gián tiếp đến lạm phát - ví dụ, nếu các công ty chuyển chi phí sản xuất tăng lên dưới hình thức giá tiêu dùng cao hơn đối với hàng hóa hoặc dịch vụ phi năng lượng hoặc nếu người lao động phản ứng với việc tăng chi phí sinh hoạt bằng cách đòi hỏi mức lương danh nghĩa cao hơn. Chi phí năng lượng tăng cũng có thể làm tăng kỳ vọng lạm phát dài hạn của công chúng, một yếu tố sẽ gây thêm áp lực lên lạm phát. Những tác động gián tiếp của giá năng lượng cao hơn đối với lạm phát chung được gọi là hiệu ứng vòng hai đối với lạm phát.
 
Tài liệu tham khảo:
 
1. Матиас Хоффманн, Эмануэль Менх, Лора Павлова, Гвидо Шультефранкенфельд, “Слова важнее цифр: коммуникация центробанков в период высокой инфляции”, 2022, https://econs.online/articles/opinions/slova-vazhnee-tsifr-kommunikatsiya-tsentrobankov/ [Truy cập 14.8.2022].
2. ECB, Past macroeconomic projections, 2022, https://www.ecb.europa.eu/mopo/strategy/ecana/html/table.en.html, Truy cập 14.8.2022.
3. Bundesbank, Inflation expectations, 2022, https://www.bundesbank.de/en/bundesbank/research/survey-on-consumer-expectations/inflation-expectations-848334#tar-1, Truy cập 14.8.2022.
4. Lena Drager, Michael Lamla, Damjan Pfajfar, “How to limit the spillover from the 2021 inflation surge to inflation expectations? 2022, https://diskussionspapiere.wiwi.uni-hannover.de/pdf_bib/dp-694.pdf, Truy cập 15.8.2022.
5. Olivier Coibion, Michael Weber, Yuriy Gorodnichenko, “Monetary communications and their effects on household inflation expectations”, 2019, https://cepr.org/voxeu/columns/monetary-policy-communications-and-their-effects-household-inflation-expectations, Truy cập 15.8.2022.
6. In Do Hwang, Thomas Lustenberger, Enzo Rossi, “Central Bank Communication and Pubic Trust: The cases of ECB speeches”, 2022, https://www.researchgate.net/publication/361639838_Central_Bank_Communication_and_Public_Trust_The_Case_of_ECB_Speeches, Truy cập 22.8.2022.
7. Mathias Hoffmann, Lora Pavlova, Guido Schultefrankenfeld, “The effects of ECB’s new inflation target on private households’ inflation expectations”, 2021, https://www.bundesbank.de/en/publications/research/research-brief/2021-43-inflation-target-881212, Truy cập 22.8.2022.
8. Jacob De Haan, etc., “What the general public knows about monetary policy, 2015, https://cepr.org/voxeu/columns/what-general-public-knows-about-monetary-policy, Truy cập 22.8.2022.

TS. Nguyễn Đình Trung 
Đại học Hòa Bình
 
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
21/03/2024 1.819 lượt xem
Hệ thống hưu trí là một bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội với hai hệ thống hưu trí bắt buộc và hệ thống hưu trí tự nguyện. Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp ở các nước trên thế giới rất quan trọng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
19/03/2024 3.330 lượt xem
Năm 2023, kinh tế thế giới phục hồi yếu và không đồng đều giữa các nền kinh tế chủ chốt. Hoạt động sản xuất, từ sản lượng công nghiệp đến hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế đều giảm.
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
07/03/2024 3.323 lượt xem
Những thay đổi về nhân khẩu học toàn cầu, đặc biệt là xu hướng già hóa dân số đang đặt ra những thách thức và rủi ro lớn cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
03/03/2024 4.480 lượt xem
Sau gần hai năm thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát và đưa lạm phát của nền kinh tế Hoa Kỳ về gần lạm phát mục tiêu là 2%, trong năm 2024, dự kiến Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ có những thay đổi lớn trong điều hành chính sách tiền tệ.
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
15/02/2024 4.624 lượt xem
Kiểm toán nội bộ có vai trò quan trọng trong việc tăng cường và bảo vệ giá trị của tổ chức thông qua chức năng cung cấp sự đảm bảo, tư vấn khách quan, chuyên sâu và theo định hướng rủi ro.
Ngân hàng Mizuho Việt Nam góp phần thúc đẩy hợp tác toàn diện kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
Ngân hàng Mizuho Việt Nam góp phần thúc đẩy hợp tác toàn diện kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
13/02/2024 4.670 lượt xem
Nhìn lại năm 2023, trên khắp Việt Nam và Nhật Bản đã diễn ra nhiều sự kiện kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Tháng 12/2023, Mizuho đã hỗ trợ Diễn đàn kinh tế Nhật Bản - Việt Nam tại Tokyo cùng với Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và các định chế tài chính khác.
Triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2024
Triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2024
26/01/2024 6.054 lượt xem
Sau những cú sốc mạnh trong năm 2022, hoạt động kinh tế toàn cầu có dấu hiệu ổn định vào đầu năm 2023.
Kinh nghiệm ứng dụng trí tuệ nhân tạo và tự động hóa quy trình bằng robot trong lĩnh vực ngân hàng trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam
Kinh nghiệm ứng dụng trí tuệ nhân tạo và tự động hóa quy trình bằng robot trong lĩnh vực ngân hàng trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam
15/01/2024 6.509 lượt xem
Chuyển đổi số và sự bùng nổ công nghệ có ảnh hưởng lớn đến hành vi của khách hàng và hoạt động kinh doanh. Xu hướng thay đổi này dẫn đến quá trình số hóa trong các lĩnh vực như sản xuất, chuỗi cung ứng, tài chính và các dịch vụ phụ trợ khác.
Thẩm quyền để xử lí ngân hàng đang đổ vỡ một cách nhanh chóng và kịp thời - Nhìn từ kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
Thẩm quyền để xử lí ngân hàng đang đổ vỡ một cách nhanh chóng và kịp thời - Nhìn từ kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
05/01/2024 7.379 lượt xem
Trong năm vừa qua, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều vụ sụp đổ của những ông lớn trong lĩnh vực ngân hàng, điều này dấy lên hồi chuông cảnh báo về tính chất dễ đổ vỡ của ngân hàng. Việc một ngân hàng đổ vỡ thể hiện kỉ luật thị trường đối với những ngân hàng có hoạt động kinh doanh thiếu an toàn, lành mạnh nhưng lại tạo ra nhiều hệ lụy cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến niềm tin của công chúng và người gửi tiền.
Phân tích lợi ích và rủi ro của tiền kĩ thuật số Ngân hàng Trung ương
Phân tích lợi ích và rủi ro của tiền kĩ thuật số Ngân hàng Trung ương
21/12/2023 8.567 lượt xem
Sự chuyển dịch nhanh chóng của hệ thống tiền tệ số toàn cầu đã khiến chính phủ các nước có phần lúng túng trong việc thích nghi với sự thay đổi mạnh mẽ trong hành vi chi tiêu và đầu tư của người dân.
Hợp tác của Trung Quốc với các nước châu Phi trong lĩnh vực ngân hàng và một số kinh nghiệm cho Việt Nam
Hợp tác của Trung Quốc với các nước châu Phi trong lĩnh vực ngân hàng và một số kinh nghiệm cho Việt Nam
20/12/2023 7.987 lượt xem
Trung Quốc là đối tác kinh tế, thương mại và đầu tư lớn nhất của châu Phi trong thời gian qua và sẽ tiếp tục trong thời gian tới. Bài viết này tóm lược sự phát triển quan hệ thương mại và đầu tư của Trung Quốc với các nước châu Phi trong thời gian hơn một thập kỉ vừa qua và việc Trung Quốc sử dụng lĩnh vực ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển đó.
Thực tiễn sử dụng tiền mã hóa trong tài trợ cuộc xung đột Nga - Ukraine và hàm ý cho Việt Nam
Thực tiễn sử dụng tiền mã hóa trong tài trợ cuộc xung đột Nga - Ukraine và hàm ý cho Việt Nam
16/11/2023 9.136 lượt xem
Bài viết khái quát quá trình triển khai huy động dòng vốn toàn cầu thông qua tiền mã hóa của Chính phủ Ukraine và Liên bang Nga; từ đó, đánh giá hiệu quả thực tiễn của việc sử dụng tiền mã hóa trong thanh toán xuyên biên giới, nguy cơ sử dụng tiền mã hóa trong các hoạt động rửa tiền, khủng bố và đưa ra hàm ý cho Việt Nam.
Quy định về hoạt động huy động vốn cộng đồng theo hình thức cổ phần tại Malaysia - Một số gợi mở cho Việt Nam
Quy định về hoạt động huy động vốn cộng đồng theo hình thức cổ phần tại Malaysia - Một số gợi mở cho Việt Nam
06/11/2023 9.059 lượt xem
Hoạt động huy động vốn cộng đồng đã trở nên phổ biến sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, phương thức này đã phát triển nhanh chóng ở nhiều nước trên thế giới. Trong đó, hoạt động huy động vốn theo hình thức cổ phần (Equity - based Crowdfunding - ECF) là hình thức gọi vốn được các doanh nghiệp trong giai đoạn khởi đầu, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo rất ưa chuộng. Với ECF, các doanh nghiệp có thể huy động vốn từ cộng đồng thông qua một nền tảng trên Internet.
Phát triển ngân hàng hợp kênh: Kinh nghiệm quốc tế và một số đề xuất cho Việt Nam
Phát triển ngân hàng hợp kênh: Kinh nghiệm quốc tế và một số đề xuất cho Việt Nam
20/10/2023 10.266 lượt xem
Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật và việc sử dụng ngày càng nhiều điện thoại thông minh và máy tính bảng, xu hướng hợp kênh đã dần trở nên quan trọng đối với tập hợp đa dạng các dịch vụ ngân hàng. Hoạt động ngân hàng hợp kênh cung cấp đường dẫn đến các dịch vụ tài chính, ngân hàng thông qua nhiều kênh khác nhau (như chi nhánh ngân hàng, ATM, tổng đài điện thoại, eBanking, Internet Banking và Mobile Banking) một cách hợp nhất dựa trên ý tưởng “mọi thứ đều có thể được làm trên mọi kênh”.
Quản trị rủi ro số tại các ngân hàng thương mại: Kinh nghiệm của Ngân hàng Trung ương Đức và một số khuyến nghị
Quản trị rủi ro số tại các ngân hàng thương mại: Kinh nghiệm của Ngân hàng Trung ương Đức và một số khuyến nghị
04/10/2023 14.371 lượt xem
Khi thế giới ngày càng trở nên số hóa và kết nối, cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ tài chính, ngân hàng ngày một gia tăng, tạo động lực cho các ngân hàng thích ứng và thực hiện chuyển đổi số. Các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, dữ liệu lớn, công nghệ chuỗi khối... đang hỗ trợ và đẩy nhanh tốc độ của quá trình chuyển đổi số, giúp các ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đa dạng đáp ứng nhu cầu ngày một cao của khách hàng.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

78.000

80.000

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

78.000

80.000

Vàng SJC 5c

78.000

80.020

Vàng nhẫn 9999

68.000

69.300

Vàng nữ trang 9999

67.900

68.800


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,550 24,920 26,090 27,522 30,409 31,703 158.80 168.08
BIDV 24,625 24,935 26,276 27,495 30,531 31,832 159.54 168.07
VietinBank 24,512 24,932 26,321 27,616 30,837 31,847 160.42 168.37
Agribank 24,600 24,930 26,213 27,483 30,551 31,684 159.87 167.97
Eximbank 24,520 24,910 26,361 27,131 30,735 31,632 161.25 165.95
ACB 24,570 24,970 26,457 27,114 30,964 31,606 161.07 166.23
Sacombank 24,552 24,947 26,529 27,087 31,020 31,531 161.74 166.78
Techcombank 24,561 24,933 26,174 27,513 30,438 31,764 157.07 169.48
LPBank 24,380 25,100 26,095 27,625 30,866 31,814 159.15 170.67
DongA Bank 24,610 24,960 26,400 27,080 30,780 31,620 159.00 166.10
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?