Cùng với các chính sách tổng thể thực hiện ba Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG): Xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; giảm nghèo bền vững, chính sách tín dụng ưu đãi dành cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác do Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) thực hiện là một cấu phần quan trọng trong các CTMTQG. Chính sách này đã tạo điều kiện cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách khác tiếp cận nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước một cách thuận lợi, nhanh chóng để phát triển sản xuất, kinh doanh, cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở khu vực nông thôn, các vùng nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Cấu phần quan trọng thực hiện các CTMTQG
Báo cáo của NHCSXH cho thấy, Ngân hàng không được bố trí vốn tín dụng dành riêng để thực hiện hai CTMTQG giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới... Song, trong thời gian qua, với chức năng là cánh tay nối dài của Chính phủ triển khai các chính sách ưu đãi cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, cùng với sự chủ động của NHCSXH trong việc đề xuất các chính sách mới gắn với nhu cầu của các đối tượng yếu thế, NHCSXH đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện hai CTMTQG nêu trên. Thể hiện ở việc NHCSXH tham mưu Ban Bí thư và Chính phủ tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội, góp phần đưa tín dụng chính sách xã hội tăng cả về chất và lượng với sự tham gia mạnh mẽ của cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc quan tâm cân đối, bố trí ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH để bổ sung nguồn vốn cho vay; theo đó, nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH tăng 26.794 tỉ đồng so với trước khi có Chỉ thị số 40-CT/TW, đưa tổng nguồn vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương đạt 30.602 tỉ đồng, chiếm tỉ trọng 10,3% tổng nguồn vốn. Đến ngày 31/12/2022, tổng nguồn vốn tín dụng chính sách đạt 296.932 tỉ đồng, tăng 63.387 tỉ đồng (+27,14%) so với năm 2020.
.JPG)
Đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách khác được tiếp cận nguồn vốn tín dụng ưu đãi
của Nhà nước để phát triển sản xuất, kinh doanh, từng bước nâng cao điều kiện sống
Đặc biệt, NHCSXH đã tích cực phối hợp với các bộ, ngành nghiên cứu, tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các chính sách tín dụng phù hợp với yêu cầu thực tiễn, như Quyết định số 02/2021/QĐ-TTg ngày 21/01/2021 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 28/2015/QĐ-TTg ngày 21/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ mới thoát nghèo; Nghị định số 49/2021/NĐ-CP ngày 01/4/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ về phát triển và quản lí nhà ở xã hội; Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19; Quyết định số 1990/QĐ-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc giảm lãi suất cho vay các chương trình tín dụng chính sách tại NHCSXH nhằm hỗ trợ người nghèo và các đối tượng chính sách khác chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19; Quyết định số 05/2022/QĐ-TTg ngày 23/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 157/2007/QĐ-TTg ngày 27/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên; Nghị quyết số 83/NQ-CP ngày 08/7/2022 của Chính phủ về việc kí quỹ và hỗ trợ cho vay để kí quỹ đối với người lao động đi làm việc tại Hàn Quốc theo Chương trình cấp phép việc làm cho lao động nước ngoài của Hàn Quốc; Các nghị định, quyết định để triển khai các chính sách cho vay ưu đãi theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình.
Đối với CTMTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, bên cạnh các chương trình tín dụng chính sách đang triển khai, còn có nguồn vốn riêng theo Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030; Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; Nghị quyết số 11/NQ-CP; Nghị định số 28/2022/NĐ-CP ngày 26/4/2022 của Chính phủ về chính sách tín dụng ưu đãi thực hiện CTMTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2030, giai đoạn 1: Từ năm 2021 đến năm 2025.
Trên cơ sở này, năm 2022, NHCSXH đã xây dựng Đề án phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh để thực hiện các chính sách cho vay theo Nghị quyết số 11/NQ-CP với tổng khối lượng phát hành là 20.400 tỉ đồng. Đến ngày 31/12/2022, NHCSXH đã phát hành được 17.900 tỉ đồng, hoàn thành 87,7% kế hoạch, trong đó tạo nguồn vốn cho vay các chương trình tín dụng theo Nghị quyết số 11/NQ-CP là 16.500 tỉ đồng/19.000 tỉ đồng, hoàn thành 86,8% kế hoạch, đáp ứng đủ nguồn vốn để giải ngân các chương trình tín dụng.
Cùng với sự nỗ lực của tập thể cán bộ NHCSXH, vốn tín dụng chính sách xã hội đã đến 100% xã, phường, thị trấn trên cả nước. Tổng dư nợ tín dụng chính sách xã hội đến ngày 31/12/2022 đạt 283.348 tỉ đồng, tăng 57.151 tỉ đồng (+25,3%) so với ngày 31/12/2020, tỉ lệ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt 12%, với hơn 6,5 triệu khách hàng còn dư nợ. Dư nợ cho vay tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đạt 101.207 tỉ đồng, chiếm 35,7% tổng dư nợ tại NHCSXH, với trên 2,1 triệu khách hàng còn dư nợ. Trong đó, dư nợ đối với khách hàng hộ dân tộc thiểu số là 70.157 tỉ đồng, với trên 1,4 triệu khách hàng còn dư nợ, chiếm 24,8% tổng dư nợ tại NHCSXH; dư nợ bình quân 01 hộ dân tộc thiểu số đạt trên 49 triệu đồng/bình quân chung là 43,2 triệu đồng.
Đối với CTMTQG xây dựng nông thôn mới, đến ngày 31/12/2022, dư nợ cho vay tại khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa đạt 254.821 tỉ đồng, chiếm gần 90% tổng dư nợ của NHCSXH. Trong đó, dư nợ tập trung vào một số lĩnh vực chính như nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản là 170.090 tỉ đồng (chiếm 66,7%); cho vay tiêu dùng trên địa bàn nông thôn (xây nhà ở; cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường; giáo dục và đào tạo...) là 66.866 tỉ đồng (chiếm 26,2%); ngành công nghiệp, thương mại và cung ứng dịch vụ phi nông nghiệp là 9.815 tỉ đồng (chiếm 3,8%)…
Dư nợ cho vay đối tượng là hộ nghèo, hộ cận nghèo và hộ mới thoát nghèo góp phần thực hiện CTMTQG giảm nghèo bền vững đạt 122.508 tỉ đồng, chiếm 43,2% tổng dư nợ, với hơn 2,9 triệu hộ đang còn dư nợ; doanh số cho vay trong năm 2021 - 2022 đạt 69.503 tỉ đồng với gần 1,4 triệu lượt hộ nghèo được vay vốn. Đặc biệt, dư nợ cho vay tại các huyện nghèo đạt gần 30.907 tỉ đồng, chiếm 10,9% tổng dư nợ, với hơn 593 nghìn hộ đang còn dư nợ; doanh số cho vay đạt 10.790 tỉ đồng với hơn 215 nghìn lượt hộ nghèo được vay vốn.
Nhìn lại giai đoạn 2021 - 2022, đã có trên 4,4 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn từ NHCSXH, với doanh số cho vay đạt 184.316 tỉ đồng; góp phần giúp gần 160 nghìn hộ vượt qua ngưỡng nghèo; thu hút, tạo việc làm cho trên 1,5 triệu lao động (trong đó gần 10 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài), trên 107 nghìn lượt học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập, giúp mua gần 86 nghìn máy vi tính, thiết bị học tập trực tuyến; xây dựng trên 2,8 triệu công trình nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông thôn; trên 20 nghìn căn nhà ở cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác; gần 2 nghìn doanh nghiệp, người sử dụng lao động bị ảnh hưởng do dịch Covid-19 được vay vốn để trả lương ngừng việc, phục hồi sản xuất cho hơn 1,2 triệu lượt người lao động…
Các chương trình tín dụng chính sách được thiết kế thành hệ thống chính sách đồng bộ, hỗ trợ đa chiều, giúp giải quyết những vấn đề căn bản, thiết yếu trong cuộc sống của người nghèo và các đối tượng chính sách khác, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kì, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng của Đảng và Nhà nước.
Cần bổ sung nguồn lực và chính sách linh hoạt
Tuy nhiên, việc góp phần triển khai các CTMTQG của NHCSXH vẫn còn hạn chế do nguồn lực để thực hiện tín dụng chính sách xã hội tuy đã được quan tâm bổ sung hằng năm nhưng vẫn chưa đáp ứng so với nhu cầu thực tế của người nghèo và các đối tượng chính sách khác, nhất là tại chương trình cho vay hỗ trợ tạo việc làm. Cơ cấu nguồn vốn chưa thực sự hợp lí và đảm bảo tính bền vững, nguồn vốn ngắn hạn chiếm 58% trong khi dư nợ trung, dài hạn chiếm 99%. Nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương tại một số tỉnh còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Việc phát hành trái phiếu NHCSXH được Chính phủ bảo lãnh có thời điểm gặp nhiều khó khăn như thị trường vốn năm 2022 có nhiều biến động, lãi suất trần được Bộ Tài chính thông báo thấp hơn lãi suất bỏ thầu của các nhà đầu tư.
Chỉ tiêu kế hoạch nguồn vốn dành cho các chương trình tín dụng theo Nghị quyết số 11/NQ-CP chưa thật sự phù hợp với nhu cầu vay vốn thực tế được tổng hợp từ các địa phương dẫn đến khó khăn trong việc hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch tín dụng được giao, như đối với chương trình cho vay hỗ trợ tạo việc làm: Nhu cầu vốn giai đoạn 2022 - 2023 là 43.140 tỉ đồng/kế hoạch 10.000 tỉ đồng, đạt 23% thực tế nhu cầu vay vốn.
Một số chương trình tín dụng có mức cho vay chưa phù hợp với nhu cầu đầu tư và diễn biến giá cả thị trường như: Cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, cho vay hộ gia đình sản xuất, kinh doanh và thương nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn…
Kiến nghị của cử tri cả nước cho thấy, hiện nay, chưa có chính sách cho vay phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh đối với hộ có mức sống trung bình làm nông, lâm, ngư, diêm nghiệp; chưa có chính sách cho vay đối với hộ cận nghèo ở khu vực nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi để xây dựng, sửa chữa nhà ở, trong khi nhà ở là một tiêu chí đánh giá việc tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản khi điều tra, phân loại hộ nghèo, hộ cận nghèo.
Đối với chương trình cho vay theo Nghị định số 28/2022/NĐ-CP, tại một số địa phương chưa phê duyệt danh sách đối tượng thụ hưởng chính sách hỗ trợ đất ở, nhà ở, đất sản xuất, chuyển đổi nghề hoặc đã phê duyệt nhưng còn chậm, chưa đầy đủ các chính sách, chưa đảm bảo tính pháp lí; phần lớn các địa phương chưa hình thành dự án đầu tư cụ thể, chưa có danh sách đối tượng thụ hưởng ban hành kèm theo Quyết định phê duyệt dự án phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, vùng dược liệu quý. Do đó, tỉ lệ giải ngân các chương trình cho vay theo Nghị định số 28/2022/NĐ-CP còn thấp.
Trưởng thôn, ấp, bản, làng, tổ dân phố tham gia nhiều hoạt động trong quá trình triển khai tín dụng chính sách xã hội tại cơ sở, tuy nhiên, chưa có chế độ phụ cấp, gắn quyền lợi với trách nhiệm nhằm tạo động lực, khuyến khích nâng cao hiệu quả thực thi nhiệm vụ.
Khảo sát thực tế cũng cho thấy, một số đối tượng bị lọt khỏi các chương trình tín dụng chính sách. Như hiện nay, địa bàn vùng khó khăn thụ hưởng chính sách tín dụng theo Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg ngày 05/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với hộ gia đình sản xuất, kinh doanh tại vùng khó khăn và Quyết định số 92/2009/QĐ-TTg ngày 08/7/2009 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với thương nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn được quy định tới cấp xã. Vì vậy, đối với thôn không thuộc danh mục các xã vùng khó khăn nhưng lại thuộc danh sách thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi không được hưởng chính sách tín dụng đối với vùng khó khăn. Tại một số địa phương, nhiều xã trước đây thuộc vùng khó khăn do đạt chuẩn nông thôn mới, chuyển thành xã khu vực I theo Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh sách các xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 nên không được thụ hưởng chính sách tín dụng đối với vùng khó khăn. Tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, có rất nhiều hộ dân tộc thiểu số (không thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo) tham gia vào các dự án phát triển sản xuất, kinh doanh của địa phương, cần có sự khuyến khích, hỗ trợ kịp thời của Nhà nước về nguồn vốn, khoa học công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm, giao thông… Việc chỉ giới hạn đối tượng thụ hưởng chính sách cho vay hỗ trợ phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị tại Nghị định số 28/2022/NĐ-CP (hộ nghèo, hộ cận nghèo) dẫn đến một bộ phận lớn người dân sinh sống ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi nói chung không được hỗ trợ vốn tín dụng chính sách kịp thời để tham gia các dự án phát triển của vùng miền. Do đó, chưa tạo động lực, khuyến khích đồng bào dân tộc thiểu số mạnh dạn đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh để tạo sự chuyển biến đột phá trong vùng như mục tiêu, yêu cầu đề ra tại Nghị quyết số 88/2019/QH14. Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do nguồn lực của Nhà nước có hạn; chưa có quy định cụ thể về tỉ lệ và nguyên tắc xác định nguồn vốn chủ đạo, phù hợp với đặc thù tín dụng chính sách xã hội. Mặt khác, do chưa có cơ chế, chính sách cụ thể nên NHCSXH khó tiếp cận vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của Chính phủ. Các chính sách tín dụng chưa kịp thời điều chỉnh theo những thay đổi liên tục về mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội và các CTMTQG. Cùng với đó là việc thiếu cơ chế chỉ đạo, điều hành tập trung, thống nhất của các ngành, các cấp trong việc phối hợp, lồng ghép các chương trình, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các hoạt động chuyển giao khoa học kĩ thuật, đào tạo nghề, phát triển mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP)... với hoạt động tín dụng chính sách xã hội.
Vì vậy, để các chương trình tín dụng chính sách tiếp tục phát huy vai trò trụ cột thúc đẩy các CTMTQG, cần tiếp tục thực hiện tốt Chị thị số 40-CT/TW, Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 07/10/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền địa phương và tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong thực hiện tín dụng chính sách xã hội; bổ sung nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH để cho vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn.
Đồng thời, phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và người dân thực hiện tốt chức năng giám sát cộng đồng, phản biện xã hội đối với việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về các CTMTQG cũng như đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội.
Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt các chính sách đã được nêu tại Nghị quyết số 88/2019/QH14, Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư CTMTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, Nghị quyết số 24/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư CTMTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025, Nghị quyết số 25/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư các CTMTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025. Phát huy hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách xã hội, khẳng định là công cụ quan trọng, góp phần trong thực hiện các CTMTQG.
NHCSXH cũng cần chủ động tham mưu, làm việc với các bộ, ngành trình Thủ tướng Chính phủ sớm giao kế hoạch vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước năm 2023 cho NHCSXH; xây dựng kế hoạch tín dụng, tài chính năm 2024 và giai đoạn 2024 - 2026, kế hoạch đầu tư công năm 2024 để kịp thời báo cáo các bộ, ngành tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác thực hiện có hiệu quả các chương trình tín dụng. Tập trung ưu tiên nguồn vốn đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo. Mở rộng đối tượng được vay đến các dự án sản xuất, kinh doanh với quy mô lớn, sản phẩm được tạo ra theo chuỗi giá trị, phù hợp với điều kiện tự nhiên từng vùng miền, tạo động lực thúc đẩy người dân sản xuất hàng hóa có giá trị cao, góp phần tạo sinh kế, nâng cao thu nhập.
Các bộ, ngành, chính quyền địa phương cần gắn kết có hiệu quả tín dụng chính sách xã hội với việc thực hiện các CTMTQG; các hoạt động chuyển giao khoa học và công nghệ; các chương trình khuyến nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, tập huấn, đào tạo nghề; xây dựng mô hình liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, chương trình OCOP... nhằm phát huy hiệu quả sử dụng vốn.
Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội cần nâng hạn mức phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, tạo điều kiện cho NHCSXH huy động nguồn vốn hạn dài, ổn định, đáp ứng nhu cầu đầu tư tín dụng, đảm bảo khả năng thanh khoản; bố trí nguồn vốn tín dụng chính sách trong giai đoạn 2024 - 2025 để tiếp tục thực hiện các chương trình tín dụng: Cho vay nhà ở xã hội; cho vay phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo Nghị định số 28/2022/NĐ-CP với số tiền tối thiểu là 10.727 tỉ đồng; cho phép chuyển nhiệm vụ thực hiện các chương trình tín dụng theo Nghị quyết số 11/NQ-CP có nhu cầu vay vốn thấp so với kế hoạch sang cho vay hỗ trợ tạo việc làm, đảm bảo tổng dư nợ các chính sách tín dụng ưu đãi theo Nghị quyết số 11/NQ-CP đến ngày 31/12/2023 đạt tối đa là 38.400 tỉ đồng.
Nhất Thanh (Hà Nội)