Tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó
18/04/2023 3.733 lượt xem
Thuận lợi và khó khăn đối với doanh nghiệp

Năm 2023, Việt Nam có được những thuận lợi cơ bản từ đà phục hồi kinh tế ấn tượng của năm 2022. Đến nay, Việt Nam  nền kinh tế lớn thứ tư ASEAN và thứ 40 của thế giới, quy mô thương mại quốc tế nằm trong Top 20 của thế giới (đạt gần 740 t USD), là một trong những nền kinh tế được đánh giá là năng động và có độ mở cao nhất thế giới.

Theo báo cáo Chỉ số sẵn sàng trí tuệ nhân tạo (AI) của chính phủ (Government AI Readiness Index) năm 2022” do Oxford Insights (Vương quốc Anh) thực hiện, Việt Nam xếp hạng 55 toàn cầu và xếp thứ 6/10 trong ASEAN (tăng 7 bậc so với với năm 2021 theo xếp hạng trên thế giới là 62/160) về chỉ số sẵn sàng trí tuệ nhân tạo; xếp hạng này dựa theo 39 chỉ số trên ba trụ cột (chính phủ, trình độ công nghệ, hạ tầng và dữ liệu) với 10 khía cạnh thuộc nhóm cơ sở hạ tầng, tính sẵn sàng của dữ liệu, tính đại diện của dữ liệu, nguồn nhân lực, năng lực đổi mới, quy mô, khả năng thích ứng, năng lực kĩ thuật số, quản trị và đạo đức, tầm nhìn.
 


Thấu hiểu và chia sẻ cùng doanh nghiệp, ngân hàng luôn sẵn sàng cùng khách hàng vượt khó, phục hồi sản xuất, kinh doanh

Việt Nam còn được xếp thứ 30 trong bảng xếp hạng các quốc gia hùng mạnh nhất thế giới năm 2022 của tạp chí Mỹ, US News & World Report (US News), với GDP được ước tính là 363 t USD, GDP bình quân đầu người là 11.553 USD; Bảng xếp hạng “dựa trên điểm trung bình được tính từ năm yếu tố liên quan đến quyền lực của một quốc gia: Sự lãnh đạo, có ảnh hưởng kinh tế, chính trị, liên minh quốc tế mạnh và quân đội mạnh.

Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến tháng 7/2021, cả nước có khoảng 840nghìn doanh nghiệp đang hoạt động với đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, khẳng định giá trị thương hiệu vươn tầm ra khu vực và thế giới. Năm 2023, Chính phủ tiếp tục Chương trình phục hồi và các chương trình mục tiêu quốc gia, kiểm soát được sự ổn định vĩ mô, sự tăng trưởng cao của thị trường trong nước thông qua chỉ số tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 13,9% (loại trừ yếu tố giá tăng 10,3%) so cùng kì năm 2022. Việt Nam đang tiếp tục khai thác các cơ hội kinh tế gắn với việc tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới; Chỉ số hạnh phúc toàn cầu của Việt Nam tăng 12 bậc trong xếp hạng của Liên hợp quốc năm 2023.  

Tuy nhiên, Việt Nam cũng như nhiều nền kinh tế trên thế giới có nhiều khó khăn hơn từ  năm 2022. Những khó khăn nổi bật gắn với suy giảm tổng cầu tiêu dùng và tốc độ tăng trưởng kinh tế trên thế giới chậm lại (năm 2023, tăng trưởng kinh tế toàn cầu đạt 2,9% GDP theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), đạt 2,6% theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), đạt 2% theo Fitch Ratings và chỉ đạt 1,7% theo Ngân hàng Thế giới (WB), với mức tăng trưởng kinh tế của Thái Lan đạt 3,6%, Malaysia đạt 4,0%, Indonesia đạt 4,8%, Philippines đạt 5,4% và Việt Nam đạt 6,3%); áp lực lạm phát và nợ công, nợ xấu ở mức cao; tổng cầu thị trường thu hẹp, nhất là các thị trường lớn của Việt Nam. Giá một số mặt hàng chiến lược, nguyên vật liệu đầu vào không ổn định (90% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là để nhập nguyên liệu sản xuất); thị trường năng lượng và nhiều xung đột địa chính trị khu vực diễn biến bất thường và gây hệ lụy tiêu cực khó lường cho kinh tế mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp đối diện với tình trạng giảm sút đơn hàng, thu hẹp thị phần xuất khẩu và gia tăng các hàng rào kĩ thuật, kiểm soát chất lượng, xuất xứ sản phẩm xuất khẩu ngày càng nghiêm ngặt hơn; nhiều doanh nghiệp ghi nhận việc sụt giảm đơn hàng từ quý IV/2022, chỉ đảm bảo khoảng 35 - 50% năng lực sản xuất, những đơn hàng còn tồn cũng bị đối tác hoãn, giãn giao hàng và khó khăn dự kiến kéo dài hết quý II/2023.

Trong khi đó, cộng đồng doanh nghiệp đa phần là nhỏ và vừa, sức cạnh tranh và khả năng đổi mới sáng tạo không cao, lợi nhuận thấp, dễ bị tổn thương, phụ thuộc nhiều vào nguồn cung ngoại nhập; vốn vay tín dụng chịu lãi suất cao, sự trì trệ của thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản và các chi phí không chính thức chậm cải thiện; nợ của nhiều doanh nghiệp đang tăng mạnh (cuối năm 2022, tổng dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản của các tổ chức tín dụng đạt khoảng 2,58 triệu tỉ đồng, tăng 24% so với năm 2021, chiếm tỉ trọng 21,2% tổng dư nợ đối với nền kinh tế và cao nhất trong 5 năm qua; 41 tổ chức tín dụng nắm giữ 274.000 tỉ đồng trái phiếu doanh nghiệp, trong đó, 117.016 tỉ đồng trong lĩnh vực bất động sản và dễ trở thành nợ xấu)... Thực tế khiến nhiều doanh nghiệp buộc phải cắt giảm lao động, giờ làm, dẫn đến giảm động lực tăng trưởng kinh tế, tăng áp lực thu nhập và bảo đảm an sinh xã hội.

Theo Tổng cục Thống kê, quý I/2023, GDP ước tính tăng 3,32% so với cùng kì năm trước (thấp hơn mức tăng cùng kì năm 2021 và năm 2022), ghi nhận mức tăng ở 58 địa phương và giảm ở 5 địa phương trên cả nước. Đặc biệt, đang có xu hướng suy giảm nhiều chỉ số kinh tế quan trọng như: Giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp quý I/2023 giảm 0,82% so với cùng kì năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,37%. Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,9% so với cùng kì năm 2022 (cùng kì năm 2022 tăng 6,6%). Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính tại thời điểm 31/3/2023 tăng 19,8% so với cùng thời điểm năm trước. Cả nước có gần 34 nghìn doanh nghiệp đăng kí thành lập mới, giảm 2% về số doanh nghiệp, giảm 34,1% về vốn đăng kí, giảm 32,8% vốn đăng kí bình quân và giảm 12,8% về số lao động, giảm 35,8% tổng số vốn đăng kí bổ sung vào nền kinh tế so với cùng kì năm 2022. Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động cũng giảm 10% và tổng số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động đạt gần 57 nghìn doanh nghiệp, giảm 5,4% so với cùng kì năm 2022. Bình quân một tháng có gần 19 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tức ít hơn số gần 20,1 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường do tăng số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn (tăng 20,1%), ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể (tăng 13,1%) và hoàn tất thủ tục giải thể (tăng 6,5%). Đồng thời, có tới 38,5% số doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được hỏi đánh giá gặp khó khăn trong quý I/2023 so với quý IV/2022 và 20,6% số doanh nghiệp dự báo quý II/2023 sẽ khó khăn hơn quý I/2023. Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng kí vào Việt Nam tính đến ngày 20/3/2023 (bao gồm vốn đăng kí cấp mới, vốn đăng kí điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài) đạt 5,45 tỉ USD, giảm tới 38,8% và FDI thực hiện cũng giảm so với cùng kì năm trước....

Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 154,27 tỉ USD, giảm 13,3% so với cùng kì năm trước, trong đó xuất khẩu giảm 11,9%; nhập khẩu giảm 14,7% và xuất siêu 4,07 tỉ USD. Kim ngạch xuất khẩu dịch vụ ước đạt 5,44 tỉ USD, tăng 238,3%; nhập khẩu dịch vụ 5,66 tỉ USD, giảm 4,3%; nhập siêu dịch vụ là 216 triệu USD.

Ngoài ra, năm 2023, Việt Nam tiếp tục chịu sức ép lạm phát tiền tệ, lạm phát chi phí đẩy và lạm phát ngoại nhập cao. Quý I/2023, CPI bình quân tăng 4,18% so với cùng kì năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân tăng 5,01%. Trong khi tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế chỉ đạt 1,61% so cùng thời điểm năm 2022 tăng 4,03% (theo NHNN, tính đến ngày 28/3/2023, tín dụng toàn nền kinh tế tăng 2,06% so với cuối năm 2022, tăng 11,7% so với cùng kì năm 2022. Đây là mức tăng thấp và chỉ cao hơn tốc độ tăng 3,21% của quý I/2021, thời kì cao điểm đại dịch Covid-19). Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội (giá hiện hành) ước đạt 583,1 nghìn tỉ đồng, tăng 3,7% so với cùng kì năm trước (vốn khu vực Nhà nước chiếm 26,2%, tăng 11,5%; khu vực ngoài Nhà nước chiếm 56,4%, tăng 1,8%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 17,4%, giảm 1,1%).
 
Những giải pháp cần có cho doanh nghiệp

Trong bối cảnh chung khó khăn đó, Quốc hội và Chính phủ đã chủ động kịp thời ban hành nhiều nghị quyết và biện pháp hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp. Bất cứ lúc nào, đặc biệt những lúc khó khăn, Chính phủ luôn thể hiện và khẳng định tinh thần đổi mới, liêm chính, hành động, phục vụ người dân và doanh nghiệp, tất cả vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Tinh thần nói ít làm nhiều, nói đi đôi với làm, chú trọng hiệu quả, không phô trương hình thức, xem người dân và doanh nghiệp là chủ thể, là trung tâm phục vụ...

Một số chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp đã có kết quả tốt như chính sách cho vay doanh nghiệp (hoãn, giãn nợ, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi, phí). Để bứt phá tăng tốc phát triển kinh tế đất nước và mỗi địa phương trong thời gian tới, cần tiếp tục miễn giảm thuế, phí, tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, miễn giảm hoặc gia hạn, giãn đóng một số loại phí về bảo hiểm xã hội để giúp doanh nghiệp, người lao động vượt qua giai đoạn khó khăn hiện tại, bảo đảm ổn định hoạt động sản xuất - kinh doanh.

Từ ngày 03/4/2023, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) chính thức giảm các loại lãi suất điều hành từ 0,3 - 0,5%/năm sau khi đã giảm 1%/năm các loại lãi suất điều hành (không bao gồm lãi suất tái cấp vốn) từ ngày 15/3/2023. Theo tinh thần Văn bản số 178/TTg-CN ngày 27/3/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc thúc đẩy và tháo gỡ thị trường bất động sản theo tinh thần của Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 11/3/ 2023 của Chính phủ về một số giải pháp tháo gỡ và thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững, NHNN đang khẩn trương triển khai thực hiện Chương trình tín dụng 120.000 tỉ đồng, chỉ đạo các ngân hàng thương mại cho chủ đầu tư và người mua nhà các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại chung cư cũ vay với lãi suất ưu đãi; rà soát, phân loại dự án bất động sản để có các biện pháp xử lí phù hợp (như giãn nợ gốc, lãi vay, cơ cấu lại nợ…), đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng… và các dự án bất động sản, góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn tín dụng cho doanh nghiệp.

Thực tế đòi hỏi NHNN cần tiếp tục hướng đến mục tiêu giảm lãi suất để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, duy trì ổn định giá trị đồng tiền, cố gắng phấn đấu kiểm soát lạm phát, ổn định tỉ giá; chủ động sử dụng các nghiệp vụ thị trường mở, hạ lãi suất điều hành và một số mức lãi suất cho vay, hỗ trợ thanh khoản, khuyến khích các tổ chức tín dụng cải thiện mặt bằng lãi suất vay, nhanh chóng giải ngân cho các doanh nghiệp hội đủ các điều kiện hoặc vay và khả năng trả nợ. Theo nhiều chủ doanh nghiệp, để đầu tư mở rộng sản xuất, đón đầu nhu cầu thị trường dự kiến sẽ cải thiện từ quý III/2023 thì doanh nghiệp cần dòng vốn dài hạn 7 - 10 năm, với lãi suất không quá 10%/năm.

Bên cạnh đó, Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền các cấp cần tiếp tục nỗ lực, đồng bộ đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; tăng cường đối thoại, tham vấn ý kiến, đồng hành, lắng nghe, chia sẻ và quyết liệt giải quyết, xử lí những khó khăn, vướng mắc, kiến nghị của doanh nghiệp, đẩy lùi tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà, khơi dậy nội lực, xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo khuyến khích mạnh mẽ sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp tư nhân trong nước, nhất là trong các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, công nghệ cao, công nghiệp công nghệ thông tin, hình thành các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế, bảo đảm chất lượng, quy định về truy xuất nguồn gốc; tăng cường kết nối cung - cầu lao động, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số; tăng cường thu hút các tập đoàn đa quốc gia và liên kết giữa khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước trong phát triển chuỗi cung ứng quốc gia và quốc tế.

Các doanh nghiệp chủ động đổi mới mô hình sản xuất - kinh doanh, tái cấu trúc theo hướng quản trị hiện đại, phát huy tinh thần tự tôn dân tộc, tuân thủ đúng pháp luật, đạo đức và văn hóa kinh doanh; nâng cao bản lĩnh và năng lực phản ứng thị trường, chủ động nắm bắt cơ hội và các phương án thích ứng với những biến động nhanh, khó lường trên thị trường hiện nay, tránh để doanh nghiệp rơi vào tình trạng mất kiểm soát; xây dựng uy tín và bảo vệ giá trị thương hiệu doanh nghiệp Việt Nam.

Đồng thời, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các Hiệp hội, Hội Doanh nhân tư nhân Việt Nam, không chỉ trong tham gia xây dựng pháp luật, chính sách, phối hợp với các cơ quan liên quan để thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, mà còn trong chủ động nghiên cứu, đánh giá và dự báo thời cơ, thách thức, xu hướng thị trường, công nghệ và yêu cầu phát triển bền vững, để kịp thời chia sẻ, hướng dẫn, hỗ trợ tư vấn cho các hội viên; mở rộng đội ngũ và tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp hội viên; đại diện quyền lợi cho các hội viên trong các quan hệ trong nước và quốc tế; làm cầu nối, vận động chính sách, duy trì đối thoại với Chính phủ và quan hệ với các cơ quan, tổ chức trong nước, nước ngoài. Doanh nghiệp khỏe, doanh nhân khỏe, thì cả hệ thống sẽ phát triển bền vững.
 
TS. Nguyễn Minh Phong (Hà Nội)
 
 
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Tín dụng đầu tư của Nhà nước - Sự cần thiết cho đầu tư phát triển quốc gia
Tín dụng đầu tư của Nhà nước - Sự cần thiết cho đầu tư phát triển quốc gia
28/09/2023 96 lượt xem
Tín dụng đầu tư của Nhà nước là tín dụng do Nhà nước thực hiện để hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực, chương trình kinh tế và các vùng khó khăn cần khuyến khích, nhằm thực hiện định hướng phát triển kinh tế - xã hội từng thời kì.
Đổi mới sáng tạo với phát triển khu đô thị công nghệ cao Việt Nam
Đổi mới sáng tạo với phát triển khu đô thị công nghệ cao Việt Nam
27/09/2023 175 lượt xem
Đổi mới sáng tạo cùng với phát triển khoa học, công nghệ đóng vai trò đột phá chiến lược trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế và là nhân tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) thúc đẩy sự phát triển các lĩnh vực công nghệ mới.
Để dòng vốn ngân hàng tiếp tục góp phần vào mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững
Để dòng vốn ngân hàng tiếp tục góp phần vào mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững
26/09/2023 284 lượt xem
Thời gian qua, hệ thống ngân hàng đã tích cực thực hiện cấp tín dụng cho các ngành, lĩnh vực xanh, phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng để thực hiện mục tiêu quốc gia về tăng trưởng xanh. Tuy nhiên, còn nhiều rào cản khiến quy mô tín dụng xanh chưa được như kì vọng.
Kiểm soát hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng và một số kiến nghị hoàn thiện
Kiểm soát hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng và một số kiến nghị hoàn thiện
21/09/2023 732 lượt xem
Kiểm soát hoạt động bảo hiểm tiền gửi trong ngân hàng là vấn đề rất cần thiết bởi điều này góp phần đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền, củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, giúp cho hệ thống ngân hàng phát triển an toàn và lành mạnh.
Thông tư số 06 góp phần giảm “tín dụng đen” và hạ lãi suất cho vay
Thông tư số 06 góp phần giảm “tín dụng đen” và hạ lãi suất cho vay
19/09/2023 926 lượt xem
Ngày 28/6/2023, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN (Thông tư số 06) sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN (Thông tư số 39) quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây viết tắt là TCTD) đối với khách hàng.
Phối hợp đồng bộ các giải pháp trong đẩy lùi “tín dụng đen”
Phối hợp đồng bộ các giải pháp trong đẩy lùi “tín dụng đen”
15/09/2023 1.222 lượt xem
Thời gian qua, NHNN đã hoàn thiện khung khổ pháp lí về hoạt động cho vay, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, phát triển các dịch vụ trực tuyến, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều quy định để tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng chính thức, hỗ trợ hoạt động vay vốn của người dân, doanh nghiệp. NHNN cũng thường xuyên chỉ đạo các tổ chức tài chính, tín dụng mở rộng, đa dạng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, giảm lãi suất, đơn giản hóa thủ tục cho vay nhằm tăng cường tiếp cận tín dụng qua các kênh chính thức, đặc biệt là với người dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Nâng cao hiệu quả cải cách hành chính trong bối cảnh chuyển đổi số ngành Ngân hàng ở Việt Nam
Nâng cao hiệu quả cải cách hành chính trong bối cảnh chuyển đổi số ngành Ngân hàng ở Việt Nam
07/09/2023 2.012 lượt xem
Với sự phát triển của khoa học, công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đem lại, quá trình chuyển đổi số ngành Ngân hàng là một đòi hỏi tất yếu khách quan.
Tập trung nguồn lực để phát triển và nâng cao hiệu quả các kênh cung ứng vốn khác nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp
Tập trung nguồn lực để phát triển và nâng cao hiệu quả các kênh cung ứng vốn khác nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp
05/09/2023 2.046 lượt xem
Nguồn vốn cung ứng cho các doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) rất đa dạng, thường qua các kênh chính sau: (1) Thông qua hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), nguồn vốn cấp dựa trên tài sản qua các hình thức như cho thuê tài chính, thuê mua trả góp, bao thanh toán (nguồn vốn này thường được cung cấp bởi các TCTD phi ngân hàng); (2) Thông qua thị trường tài chính bằng cách phát hành cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng qua việc sử dụng các công cụ vốn; (3) Nguồn vốn trực tuyến (cho vay ngang hàng, công nghệ tài chính - fintech).
Giải pháp phát triển kinh tế ban đêm ở Việt Nam
Giải pháp phát triển kinh tế ban đêm ở Việt Nam
30/08/2023 2.564 lượt xem
Kinh tế ban đêm (night - time economy) đang thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có ngành du lịch phát triển, trong đó có Việt Nam. Đề án phát triển kinh tế ban đêm ở Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo Quyết định số 1129/QĐ-TTg ngày 27/7/2020 nhằm mục tiêu khai thác tiềm năng phát triển kinh tế ban đêm, tận dụng tối đa cơ hội để phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và đời sống của người dân.
Đổi mới biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh tín dụng nhằm nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Đổi mới biện pháp bảo đảm trong hoạt động bảo lãnh tín dụng nhằm nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
21/08/2023 3.176 lượt xem
Bài viết này nghiên cứu quy định về biện pháp bảo đảm trong chính sách bảo lãnh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) từ khi chính sách này được đưa vào áp dụng ở Việt Nam (năm 2002) đến nay.
Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2022 và khuyến nghị chính sách
Đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016 - 2022 và khuyến nghị chính sách
04/08/2023 5.786 lượt xem
Trong những năm qua, Việt Nam liên tục đạt được những bước phát triển tích cực, luôn đứng trong nhóm các quốc gia có tốc độ phát triển nhanh, vị thế trên trường quốc tế ngày càng cao; đời sống người dân được nâng lên, thứ tự năng lực cạnh tranh quốc tế được cải thiện, trong đó, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tích cực đã có nhiều đóng góp lớn cho tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam suốt giai đoạn vừa qua.
Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng: Để “cung” và “cầu” tín dụng gặp nhau
Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng: Để “cung” và “cầu” tín dụng gặp nhau
01/08/2023 6.201 lượt xem
Trong nửa đầu năm 2023, bức tranh kinh tế vĩ mô của Việt Nam có nhiều gam màu trầm dưới tác động tiêu cực từ kinh tế thế giới và những khó khăn nội tại của kinh tế trong nước. Tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2023 chỉ đạt 3,72%, là mức thấp nhất trong giai đoạn từ năm 2011 tới nay (nếu loại trừ năm 2020 do tác động của dịch Covid-19).
Hạn chế rủi ro phát sinh trong hoạt động cho vay  của tổ chức tín dụng đối với khách hàng
Hạn chế rủi ro phát sinh trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng
28/07/2023 4.573 lượt xem
Ngày 28/6/2023, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 06/2023/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng (Thông tư số 06). Thông tư số 06 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/9/2023.
Chuyển đổi số trong các ngân hàng thương mại Việt Nam - Một số khuyến nghị về chính sách pháp lí
Chuyển đổi số trong các ngân hàng thương mại Việt Nam - Một số khuyến nghị về chính sách pháp lí
21/07/2023 5.084 lượt xem
Để bắt kịp xu thế của thời đại, các công ty nói chung và ngân hàng nói riêng phải tiến hành chuyển đổi số. Nếu không số hóa trong quá trình kinh doanh, không áp dụng khoa học công nghệ vào hoạt động đầu tư hằng ngày thì lĩnh vực ngân hàng Việt Nam có nguy cơ tụt hậu và chậm phát triển so với thế giới. Bài viết tổng hợp cách tiếp cận và kinh nghiệm về chuyển đổi số tại một số tổ chức trên thế giới, từ đó khuyến nghị về chính sách pháp lí góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam.
Quy định về điều kiện vay nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh
Quy định về điều kiện vay nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh
18/07/2023 4.908 lượt xem
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 08/2023/TT-NHNN ngày 30/6/2023 quy định về điều kiện vay nước ngoài không được Chính phủ bảo lãnh (Thông tư số 08), áp dụng với các đối tượng gồm: Người cư trú là doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ chức tín dụng (TCTD) và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập, hoạt động kinh doanh tại Việt Nam là bên đi vay nước ngoài (gọi chung là bên đi vay); TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam nơi bên đi vay mở tài khoản vay, trả nợ nước ngoài (gọi chung là ngân hàng cung ứng dịch vụ tài khoản).
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

68.050

68.750

Vàng SJC 5c

68.050

68.770

Vàng nhẫn 9999

56.650

57.600

Vàng nữ trang 9999

56.500

57.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,200 24,570 25,105 26,483 28,868 30,098 159.15 168.46
BIDV 24,240 24,540 25,281 26,469 29,007 30,070 160.4 168.73
VietinBank 24,137 24,557 25,354 26,489 29,226 30,236 160.3 168.25
Agribank 24,200 24,550 25,358 26,066 29,122 29,955 161.42 165.41
Eximbank 24,150 24,540 25,385 26,091 29,179 29,991 161.18 165.66
ACB 24,190 24,540 25,423 26,061 29,339 29,955 160.81 166.01
Sacombank 24,180 24,535 25,495 26,160 29,402 29,911 161.08 167.62
Techcombank 24,211 24,548 25,142 26,464 28,831 30,120 156.91 169.16
LPBank 24,190 24,750 25,283 26,610 29,286 30,211 159.12 170.63
DongA Bank 24,250 24,550 25,470 26,070 29,280 30,020 159.4 166.1
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
BIDV
0,10
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Cake by VPBank
0,40
-
-
-
4,75
4,75
4,75
7,0
7,10
7,3
6,00
ACB
0,05
0,50
0,50
0,50
3,40
3,50
3,60
5,10
5,30
5,30
5,40
Sacombank
-
-
-
-
3,50
3,60
3,70
5,30
5,60
6,00
6,30
Techcombank
0,10
-
-
-
3,50
3,50
3,70
4,90
4,95
5,50
5,50
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
4,35
4,35
4,35
5,50
5,50
6,30
6,60
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,50
4,50
4,50
6,20
6,30
6,55
6,75
Agribank
0,20
-
-
-
3,00
3,00
3,50
4,50
4,50
5,50
5,50
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
4,00
4,00
4,00
5,00
5,30
5,50
5,80

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?