Thách thức cho các ngân hàng thương mại trong và sau dịch Covid-19
25/11/2020 7.488 lượt xem
Khi dịch Covid bùng phát, một lượng khách hàng trước đây chưa muốn sử dụng các kênh kỹ thuật số khi giao dịch với ngân hàng đã buộc phải làm điều đó để hạn chế giao dịch trực tiếp tại chi nhánh ngân hàng.


Trong và sau dịch Covid, các ngân hàng sẽ phải đối mặt với các vấn đề phát sinh như: 
An ninh bảo mật, giảm lãi suất, xử lý số đơn vay tăng cao...
 
Điều này sẽ làm tăng số lượng khách hàng giao dịch qua các kênh kỹ thuật số, dẫn đến cơ hội nhưng cũng là thách thức đối với hệ thống ngân hàng. Ngành Ngân hàng không chỉ cần đảm bảo hệ thống vận hành ổn định, đáp ứng nhu cầu giao dịch trực tuyến tăng đột biến của khách hàng, mà còn phải giải quyết rất nhiều vấn đề phát sinh như vấn đề bảo mật; vấn đề giảm lãi suất, không chuyển nhóm nợ với khách hàng bị ảnh hưởng của dịch theo chỉ thị của Ngân hàng Nhà nước, xử lý số đơn vay tăng cao... Phần lớn các công việc trong số đó, dù là giải pháp kỹ thuật hay thay đổi quy trình nghiệp vụ, cơ cấu nhân sự, đều có thể góp phần vào sự phát triển dài hạn của ngân hàng và cần được tiếp tục triển khai sau khi dịch bệnh đã được đẩy lùi.
 
Trước tiên, điều dễ thấy nhất là trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội, việc sử dụng ATM đã tăng khi người tiêu dùng cố gắng giảm thiểu các tương tác trực diện. Nhưng điều gì xảy ra trong tương lai? Chúng ta đang hướng tới một xã hội không tiền mặt, hay ít nhất là giảm thiểu việc sử dụng tiền mặt. Điều đó có ảnh hưởng đến sự cần thiết của máy ATM không? Có thể, nhưng nhu cầu về máy ATM ở các vùng xa hoặc ngoài phòng giao dịch của ngân hàng cũng có thể tăng lên. Theo các chuyên gia nghiên cứu, một máy ATM có chức năng nhận tiền tại địa điểm tốt có thể thực hiện phần lớn vai trò của các phòng giao dịch truyền thống với chi phí chỉ bằng khoảng 10% chi phí để triển khai một chi nhánh và chi phí hoạt động chỉ bằng 5%. Vì thế, ngân hàng cần triển khai nhiều hơn các ATM có chức năng nhận tiền.
 
Các ngân hàng sẽ cần tới những máy ATM cho phép khách hàng tương tác với nhân viên tư vấn từ xa. Ngay cả sau khi dịch bệnh đã chấm dứt, khả năng tương tác từ xa với nhân viên tư vấn cũng sẽ giúp ngân hàng mở rộng khả năng tư vấn những dịch vụ cao cấp hơn, đồng thời nâng cao tỷ lệ tận dụng năng lực của đội ngũ tư vấn chuyên ngành tại trung tâm. Một khía cạnh khác cũng cần được xem xét là việc gia tăng sử dụng các nhân viên giao dịch đa năng. Nhân viên chi nhánh cần có khả năng cung cấp tất cả các dịch vụ để có thể phục vụ khách hàng tốt hơn, linh hoạt hơn. Tuy nhiên, điều đó không chỉ đơn giản là thay đổi chức danh công việc của các giao dịch viên mà cần có sự triển khai bài bản với sự giám sát, theo dõi và đào tạo liên tục. Nhu cầu tư vấn hoặc dịch vụ tài khoản sẽ tăng lên khi có nhiều khách hàng cần trợ giúp xây dựng kế hoạch tài chính trong một thế giới hậu đại dịch. Vai trò của các chi nhánh ngân hàng sẽ dịch chuyển nhiều về phía trung tâm tư vấn trong vài năm qua và xu hướng đó sẽ tăng tốc trong thời gian tới. Điều này đặt ra nhiều câu hỏi khác liên quan đến nhân viên, đào tạo, công nghệ và thậm chí cả hạ tầng (ví dụ như bố trí văn phòng thế nào cho phù hợp với công tác tư vấn và dịch vụ tài khoản).
 
Tuy tình hình dẫn đến việc khách hàng phải tăng cường chuyển sang sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử nhưng điều đó không có nghĩa là ngân hàng chỉ cần ngồi yên đợi khách hàng đến với mình. Rất nhiều ngân hàng đã gửi thông báo để trấn an khách hàng đồng thời tranh thủ giới thiệu các dịch vụ trực tuyến. Tuy nhiên, điều đó sẽ là chưa đủ nếu các ngân hàng chỉ đơn giản hướng khách hàng đến trang web của họ hoặc gửi một thông điệp chung chung mà không thể hiện rằng bạn đánh giá cao mối quan hệ với họ. Khách hàng cần biết rằng bạn hiểu nhu cầu của họ, đang tạo điều kiện thuận lợi cho họ. Thông điệp phải kịp thời, dễ hiểu và được cá nhân hóa cao độ. Ngay cả khi đã chỉ rõ sản phẩm phù hợp với khách hàng, nhiều ngân hàng vẫn phạm sai lầm khi sử dụng các liên kết hướng người dùng đến trang web của mình chứ chưa đưa ra các chỉ dẫn cụ thể, buộc người dùng phải tìm kiếm trang đăng ký trực tuyến hoặc nút tải xuống ứng dụng di động. Để đưa người dùng đến đúng địa chỉ cần thiết trong mỗi chiến dịch bán hàng không cần tới trí tuệ nhân tạo, các thiết kế trải nghiệm người dùng có thể cấu hình được cho từng chiến dịch hoặc mã khuyến mãi là đủ để thực hiện điều đó.
 
Với những người già, những người chưa quen với giao dịch ngân hàng trực tuyến nhưng đã cung cấp số điện thoại di động hoặc địa chỉ email, có thể liên hệ và hướng dẫn họ cách thực hiện các giao dịch trực tuyến đơn giản. Để mở rộng quy mô tương tác này, nhân viên chi nhánh và trung tâm dịch vụ khách hàng cần được đào tạo về vấn đề này. Các ứng dụng có thể bổ sung các biện pháp hỗ trợ nội tại để giúp khách hàng biết tới đến các tính năng ít được sử dụng. Tốt hơn nữa là các giải pháp Digital Demos, thứ có thể cung cấp các trình mô phỏng gọn nhẹ, giảng dạy thông qua nội dung ngắn gọn, dễ hiểu và các ngân hàng nên thử nghiệm triển khai sớm để thay thế cho những tài liệu hướng dẫn nhàm chán.


Trong thời điểm dịch Covid bùng phát, số lượng khách hàng đến giao dịch tại các ngân hàng giảm xuống đáng kể, phần lớn khách hàng đã tìm đến các kênh kỹ thuật số để giao dịch với ngân hàng
 
Khách hàng không chỉ cần biết về các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mà còn nên biết khi nào họ cần tới sự giúp đỡ của ngân hàng. Những phân tích chủ động, sâu cho từng khách hàng cá nhân không chỉ mang lại lợi ích cho khách hàng mà cả các tổ chức tài chính, những khuyến cáo cụ thể, hữu ích sẽ giúp gia tăng mối quan hệ với khách hàng đồng thời tạo ra nguồn thu cho ngân hàng trong tương lai. Các ngân hàng nên có các công cụ để chủ động nhận ra sự gián đoạn hay sụt giảm thu nhập của khách hàng (chẳng hạn như tiền gửi giảm) để đưa ra lời nhắc thanh toán, khuyến nghị cắt giảm chi tiêu vượt ngân sách và giúp khách hàng theo dõi luồng tiền. Điều đó không chỉ giúp ích cho khách hàng mà còn cho phép các ngân hàng duy trì cuộc đối thoại lâu dài và liên tục với khách hàng của họ, từ đó tăng sự hài lòng và gắn kết của khách hàng. Các hộ kinh doanh và các doanh nghiệp nhỏ thường không có bộ phận tài chính chuyên nghiệp để đưa ra các dự báo và kịch bản dòng tiền, do đó có thể không đưa ra quyết định đúng đắn. Các ngân hàng có thể giúp khách hàng của họ dự báo dòng tiền theo các kịch bản vĩ mô khác nhau và từ đó hiểu được tình hình tài chính của họ và thời điểm cần thực hiện các hành động giảm nhẹ rủi ro. Một số ngân hàng tìm cách tùy chỉnh các công cụ dự báo dòng tiền hiện tại cho mục đích này và một số giải pháp fintech sẵn có cũng có thể được tùy chỉnh cho mục đích này. Trong một số trường hợp, những mẫu biểu đơn giản trong Excel (ví dụ như https://temsheet.office.com/en-us/small-business-cash-flow-projection-tm01113236) cũng đủ cho các doanh nghiệp siêu vi mô. Mặt khác, trong khi hầu hết các cán bộ quan hệ khách hàng có thể tăng cường tương tác với khách hàng bằng cách sử dụng tất cả các công cụ cộng tác có sẵn của ngân hàng, họ cũng có thể giúp khách hàng sử dụng những công cụ phù hợp để giữ liên lạc với khách hàng của mình (khách hàng của khách hàng). Giãn cách xã hội không loại trừ các cuộc trò chuyện chuyên sâu, ngay cả khi họ không thể trực tiếp gặp gỡ. Loại hỗ trợ tư vấn này có thể nâng tầm mối quan hệ của khách hàng với ngân hàng, biến ngân hàng từ một nhà cung cấp dịch vụ tài chính thông thường thành một cố vấn đáng tin cậy. Trong khi các chuyên viên quan hệ khách hàng  giỏi sẽ làm điều này một cách tự nhiên,  một cán bộ quan hệ khách hàng điển hình sẽ cần hỗ trợ đào tạo về công nghệ.
 
Mỗi khi có sự kiện lớn xảy ra, bọn tội phạm luôn gia tăng hoạt động để khai thác các điểm yếu và nhắm vào những khách hàng dễ bị lừa đảo. Vì vậy, trong khi các ngân hàng đang cố gắng cho phép khách hàng truy cập linh hoạt hơn (chẳng hạn nâng hạn mức tín dụng cho khách hàng dùng thẻ không tiếp xúc), họ cũng cần phải tăng cường các biện pháp chống lừa đảo và đảm bảo an ninh mạng. Ngoài việc cảnh báo khách hàng và đưa ra những hướng dẫn cụ thể, các ngân hàng cần triển khai những công cụ hiệu quả cho phép mở rộng truy cập kỹ thuật số một cách an toàn và nhanh chóng.
 
Mặc dù có nhiều vấn đề được đề cập và bàn luận, tuy nhiên, đó mới chỉ là những vấn đề “đối ngoại”. Ngay trong nội bộ ngân hàng, cũng có nhiều việc cần làm để đối phó với dịch Covid-19. Nhiều ngân hàng đang nhận được số lượng đơn xin vay gấp nhiều lần mức thông thường của họ và con số đó sẽ còn tăng cao hơn nữa khi các cá nhân và doanh nghiệp nhận được thông tin về các chương trình cho vay được Chính phủ hỗ trợ. Nhu cầu xử lý cao sẽ vượt quá khả năng hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là khi có các hạn chế liên quan đến dịch bệnh (cán bộ nhiễm bệnh hay buộc phải cách ly tập trung) và làm việc từ xa. Khó khăn trở nên trầm trọng hơn bởi quy trình xét duyệt phức tạp, thay đổi các điều kiện vay của chính ngân hàng và các yêu cầu quy trình cụ thể của các chương trình bảo lãnh quốc gia, do mới được ban hành nên vẫn phải xử lý thủ công tại hầu hết các ngân hàng. Các giải pháp tức thời sẽ cần phải bổ sung nhân lực tạm thời để xử lý các ứng dụng thủ công trong trung tâm dịch vụ khách hàng và nhóm tín dụng, có lẽ bằng cách bố trí lại nhân viên làm công việc không khẩn cấp ở nơi khác trong ngân hàng. Việc cho phép các ngoại lệ đối với các chính sách hiện tại liên quan đến yêu cầu dữ liệu và các bước xử lý cũng sẽ được áp dụng khi việc thực hiện điều đó để không tạo ra rủi ro không đáng có. Các ngân hàng cũng cần có cách tiếp cận bền vững hơn để xử lý số lượng đơn xin vay tăng vọt. Điều này phải bao gồm các kênh điện tử để quản lý các đơn xin vay liên quan đến Covid-19 (dưới dạng kênh riêng hoặc theo dõi riêng trong các kênh hiện có) và mở rộng việc phê duyệt tín dụng tự động cho càng nhiều đơn xin vay càng tốt, để các cán bộ tín dụng có thể tập trung vào các trường hợp ngoại lệ và các trường hợp rủi ro cao hơn. Việc tự động hóa này có thể yêu cầu một số ngân hàng tăng kết nối API của họ với các nguồn dữ liệu và tới các cơ quan Chính phủ liên quan đến các chương trình hỗ trợ tài chính. Việc tăng cường sử dụng chữ ký điện tử và phê duyệt trước các giới hạn tín dụng cho các khách hàng hiện tại (dựa trên quan điểm cụ thể của ngành về tình trạng khó khăn) cũng có thể đẩy nhanh quá trình tín dụng. Tuy nhiên, những biện pháp đó vẫn là chưa đủ. Các ngân hàng cần xây dựng một khung quyết định tín dụng đủ mạnh và linh hoạt. Vai trò chính yếu của hội đồng tín dụng sẽ là điều chỉnh và luật hóa khung quyết định tín dụng để đối phó với sự biến đổi nhanh chóng của thị trường. Trong một số lĩnh vực, tiêu chí cho vay mới có thể được luật hóa đầy đủ, cho phép đưa ra quyết định tự động. Trong những lĩnh vực khác, các tiêu chí đó sẽ cung cấp một nền tảng chung cho các quyết định dựa trên chuyên gia được đơn giản hóa một cách thận trọng để đối phó với số đơn xin vay tăng vọt.
 
Đối với kịch bản thay thế, chúng bao gồm các kịch bản dịch tễ học (đại dịch sẽ diễn ra như thế nào), các kịch bản kinh tế vĩ mô (ảnh hưởng đến GDP, lạm phát, hiệu quả ngành...) và các kịch bản tín dụng (cách các hiệu ứng kinh tế sẽ chuyển thành hiệu suất của công ty, xác suất vỡ nợ, giá trị tài sản thế chấp…). Các kịch bản này sẽ cần phải được cập nhật khi tình hình thay đổi và lý tưởng nhất là chúng phải có áp dụng cho toàn nhóm để đảm bảo tính thống nhất trong các quyết định cho vay.
 
Song song với đó, cần xây dựng một bộ chiến lược đối xử với khách hàng toàn diện. Bộ chiến lược có thể bao gồm tăng hạn mức tín dụng của từng khoản vay, từng khách hàng, các hạn mức bổ sung, các ngày lễ (để xác định ngày thanh toán lãi và trả nợ gốc). Ngoài ra, cần đưa thêm các tùy chọn được tạo bởi các ​​chính sách hỗ trợ của Chính phủ như cho vay được Chính phủ bảo lãnh, giảm lãi suất và hỗ trợ trả lương người lao động nghỉ ốm.
 
Khung quyết định tín dụng sẽ đưa ra logic để đề xuất các chiến lược ứng xử với khách hàng trên cơ sở tình huống của họ, phân biệt giữa những doanh nghiệp lành mạnh trước khủng hoảng và không thuộc lĩnh vực khó khăn, những người trước đây là khách hàng lành mạnh nhưng bị ảnh hưởng nặng nề và các khách hàng đã gặp khó khăn trước khủng hoảng. Một nhiệm vụ quan trọng trong thời gian tới sẽ là xây dựng các tiêu chí đủ điều kiện tham gia các chương trình hỗ trợ của Chính phủ và kết hợp điều này với các tiêu chí phê duyệt tín dụng hiện tại của ngân hàng. Trong một số trường hợp, logic quyết định có thể được nhúng trong các công cụ và quy trình tự động hiện có. Trong các trường hợp khác, cần phát triển nhanh các công cụ tạm thời cho nhân viên quan hệ khách hàng và nhân viên tín dụng.
 
Hội đồng tín dụng sẽ hỗ trợ các nhân viên quan hệ khách hàng và nhân viên tín dụng trong việc giải thích và triển khai khung quyết định trong các tình huống cụ thể, xử lý các trường hợp ngoại lệ và điều chỉnh khung quyết định khi cần thiết. Hội đồng tín dụng cũng sẽ liên tục điều chỉnh chính sách của ngân hàng khi cuộc khủng hoảng diễn ra, tác động của nó với nền kinh tế và triển vọng phát triển, và khi Chính phủ ban hành các ​​chính sách mới.
 
Không chỉ phục vụ những nhu cầu ngắn hạn và trung hạn, đầu tư kỹ thuật số phải được các ngân hàng tiếp tục phát triển để hướng tới tương lai. Những khách hàng mới làm quen với giao dịch ngân hàng điện tử trong đợt dịch Covid-19 bùng phát nhiều khả năng sẽ duy trì thói quen của họ ngay cả khi dịch bệnh đã qua đi. Hãy xét một ví dụ đơn giản: Mở tài khoản kỹ thuật số là nhu cầu tất yếu trong giai đoạn giãn cách xã hội và hoạt động này sẽ gia tăng nhanh chóng trong tương lai. Theo một báo cáo do J.D. Power phát hành vào tháng 1/2020, tỷ lệ mở tài khoản kỹ thuật số mới đã tăng 9% từ 22% năm 2019 lên 31% vào năm 2020. Ngược lại, tỷ lệ mở tài khoản tại chi nhánh ngân hàng giảm 10% xuống còn 55%. Ngoài việc lựa chọn nhà cung cấp giải pháp tốt, các ngân hàng cần thấu hiểu tâm lý khách hàng để xây dựng giao diện và quy trình phù hợp. Những người sử dụng kỹ thuật số để mở tài khoản thường muốn tự thực hiện mà không bị quấy rầy bởi những câu hỏi không cần thiết nhưng đối với những người có thể có câu hỏi trong quá trình mở tài khoản, một đề xuất hỗ trợ đơn giản có thể giúp vượt qua. Điều này có thể thực hiện bằng nhiều hình thức: Trò chuyện trực tiếp (chat), nút nhấp để gọi, trò chuyện video với nhân viên hỗ trợ hoặc thậm chí là đặt cuộc hẹn kỹ thuật số. Thời gian để làm điều này là trong khi ứng dụng đang được mở chứ không phải sau khi nó đã bị đóng lại. Ngoài ra, các yếu tố về chính sách và quy trình cũng cần được xem xét. Các ngân hàng cần thực hiện những công việc sau:
 
- Đánh giá lại các chính sách cấm thiết lập tài khoản thanh toán, tài khoản tiết kiệm hoặc tài khoản vay mới dưới bất kỳ hình thức nào mà không có sự tham gia của chi nhánh;
 
- Đơn giản hóa quy trình thiết lập tài khoản kỹ thuật số bằng cách loại bỏ các bước và cải thiện thiết kế để hướng tới khách hàng;
 
- Chuyển đổi tất cả các hoạt động hỗ trợ phía sau để hỗ trợ các tài khoản kỹ thuật số mới bằng cách sử dụng các công nghệ kỹ thuật số và tích hợp liền mạch.

 
Tài liệu tham khảo:
 
- https://thefinancialbrand.com/94558/branches-account-opening-digital-onboard-mobile/
 
- https://horizn.com/covid-19/?internal-link.


ThS. Nguyễn Anh Tuấn

Theo Chuyên đề Công nghệ và Ngân hàng Số, số 5/2020
 
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Đảm bảo an ninh, an toàn trong cung ứng và sử dụng dịch vụ ví điện tử
Đảm bảo an ninh, an toàn trong cung ứng và sử dụng dịch vụ ví điện tử
19/04/2024 723 lượt xem
Nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động thanh toán, trong đó có dịch vụ ví điện tử, thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật liên quan mở và sử dụng tài khoản thanh toán (TKTT), thẻ ngân hàng, ví điện tử...
Phát triển ngân hàng xanh nhằm tạo động lực cho phát triển bền vững ở Việt Nam
Phát triển ngân hàng xanh nhằm tạo động lực cho phát triển bền vững ở Việt Nam
15/04/2024 1.311 lượt xem
Ngân hàng xanh đóng vai trò quan trọng trong phát triển bền vững. Mục tiêu của bài viết này nhằm nhận diện những khó khăn và thách thức mà ngân hàng xanh ở Việt Nam đang gặp phải thông qua phỏng vấn sâu với 30 lãnh đạo và nhân viên giàu kinh nghiệm tại các ngân hàng thương mại (NHTM).
Xác thực sinh trắc học giúp tăng khả năng bảo mật  và an toàn cao hơn trong giao dịch ngân hàng
Xác thực sinh trắc học giúp tăng khả năng bảo mật và an toàn cao hơn trong giao dịch ngân hàng
03/04/2024 2.727 lượt xem
Từ ngày 01/7/2024, khách hàng phải xác thực sinh trắc học khi giao dịch ngân hàng lần đầu bằng Mobile Banking; mọi giao dịch chuyển tiền có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên đều phải thông qua bước xác thực bằng sinh trắc học đối với người chuyển tiền; tổng số tiền các giao dịch trên 20 triệu đồng/ngày phải xác thực bằng sinh trắc học.
Agri-Fintech: Giải pháp cho việc nâng cao hiệu quả tài trợ tài chính trong lĩnh vực nông nghiệp của kỉ nguyên số
Agri-Fintech: Giải pháp cho việc nâng cao hiệu quả tài trợ tài chính trong lĩnh vực nông nghiệp của kỉ nguyên số
27/03/2024 2.631 lượt xem
Việc tài trợ tài chính cho lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam trong thời gian qua luôn gặp nhiều khó khăn cho dù đã có sự nỗ lực của Chính phủ, các bộ, ngành và các bên liên quan.
Giải pháp phát triển nguồn nhân lực ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số
Giải pháp phát triển nguồn nhân lực ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số
25/03/2024 3.403 lượt xem
Quá trình số hóa ở Việt Nam đang ngày càng phát triển nhanh chóng, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng. Với sự tiến bộ không ngừng của công nghệ, ngành Ngân hàng đang có những cải cách trong nền tảng kĩ thuật số nhằm cung ứng dịch vụ và giải quyết yêu cầu của khách hàng tốt hơn.
Nâng cao kĩ năng cho người tiêu dùng trong sử dụng thẻ tín dụng
Nâng cao kĩ năng cho người tiêu dùng trong sử dụng thẻ tín dụng
22/03/2024 4.089 lượt xem
Ngày nay, với nhiều tiện ích, thẻ tín dụng đã trở nên phổ biến trong chi tiêu, mua sắm của người dân. Tuy nhiên, thực tế không ít người do chưa hiểu rõ về tính năng của thẻ, số ngày miễn lãi, nguyên tắc trả nợ và cách tính lãi suất nếu thanh toán không đủ hoặc không đúng hạn mà có thể trở thành những “con nợ” lớn của ngân hàng.
Tăng cường các giải pháp ngăn chặn lừa đảo chiếm đoạt tiền trong tài khoản
Tăng cường các giải pháp ngăn chặn lừa đảo chiếm đoạt tiền trong tài khoản
20/03/2024 4.132 lượt xem
Thời gian gần đây, ngày càng xuất hiện nhiều hơn tình trạng tội phạm sử dụng các loại mã độc đánh cắp thông tin, mã hóa dữ liệu của người dùng để chiếm đoạt tài sản. Các chuyên gia bảo mật cảnh báo, sau khi xâm nhập, các mã độc này có thể "nằm vùng" như một gián điệp, thu thập thông tin, điều khiển các ứng dụng ngân hàng, đánh cắp tài khoản, mật khẩu và mã OTP của nạn nhân để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.
Giải pháp thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt và số hóa ngân hàng
Giải pháp thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt và số hóa ngân hàng
15/03/2024 4.337 lượt xem
Thời gian qua, với mục tiêu lấy khách hàng là trung tâm, ngành Ngân hàng đã không ngừng hoàn thiện pháp lý và hạ tầng công nghệ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM), thúc đẩy hoạt động ngân hàng số và đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán.
Nghĩa vụ bảo mật thông tin người sử dụng Internet Banking của nhà cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán
Nghĩa vụ bảo mật thông tin người sử dụng Internet Banking của nhà cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán
13/03/2024 4.059 lượt xem
Trong bối cảnh chuyển đổi số, Việt Nam luôn nỗ lực thay đổi, cải tiến và cập nhật những công nghệ hiện đại để áp dụng phát triển trong hầu hết các lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế. Internet Banking hay dịch vụ thanh toán trên các thiết bị điện tử trở thành một bước tiến trong giao dịch thương mại.
Hoạt động tài chính vi mô trong xu hướng phát triển của công nghệ tài chính
Hoạt động tài chính vi mô trong xu hướng phát triển của công nghệ tài chính
04/03/2024 4.843 lượt xem
Tổ chức tài chính vi mô (TCVM) là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện một số hoạt động nghiệp vụ như ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp nhỏ.
Xây dựng nguồn lực con người nhằm phát triển văn hóa doanh nghiệp trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng
Xây dựng nguồn lực con người nhằm phát triển văn hóa doanh nghiệp trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng
01/03/2024 4.900 lượt xem
Kết quả nghiên cứu về phát triển văn hóa doanh nghiệp trong chuyển đổi số của các tổ chức nói chung và lĩnh vực ngân hàng nói riêng đều khẳng định, văn hóa doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng, như là “quyền lực mềm” của tổ chức, giúp tổ chức phát triển bền vững.
Pháp luật về định danh khách hàng điện tử trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
Pháp luật về định danh khách hàng điện tử trong hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
14/02/2024 6.798 lượt xem
Trong quá trình hoạt động chuyển đổi số ngành Ngân hàng tại Việt Nam, định danh khách hàng điện tử hay còn gọi là eKYC (Electronic Know Your Customer) đang trở thành một xu hướng phát triển tất yếu. Công nghệ này cho phép các ngân hàng tại Việt Nam cung ứng dịch vụ số hóa, nâng cao trải nghiệm của khách hàng và tối ưu hóa hoạt động, đặc biệt trong hoạt động liên quan đến tài khoản thanh toán.
Chuyển đổi số ngành Ngân hàng - Tăng tốc và phát triển bền vững
Chuyển đổi số ngành Ngân hàng - Tăng tốc và phát triển bền vững
08/02/2024 6.793 lượt xem
Chuyển đổi số trong ngành Ngân hàng không chỉ là một xu hướng mà còn là một bước tiến quan trọng hướng tới tương lai tài chính hiện đại và linh hoạt.
Triển khai ứng dụng dữ liệu dân cư quốc gia góp phần đảm bảo an ninh, an toàn và thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng
Triển khai ứng dụng dữ liệu dân cư quốc gia góp phần đảm bảo an ninh, an toàn và thúc đẩy chuyển đổi số ngân hàng
01/02/2024 6.630 lượt xem
Trong bối cảnh phát triển sâu rộng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) trong mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội, xu hướng chuyển dịch các giao dịch theo phương thức truyền thống sang môi trường điện tử gia tăng. Khách hàng được trải nghiệm đa dạng các dịch vụ tiện ích, hiện đại và tiết kiệm thời gian, chi phí.
Tăng cường đào tạo văn hóa số lĩnh vực ngân hàng theo mô hình ASK trong bối cảnh chuyển đổi số tại Việt Nam
Tăng cường đào tạo văn hóa số lĩnh vực ngân hàng theo mô hình ASK trong bối cảnh chuyển đổi số tại Việt Nam
29/01/2024 6.668 lượt xem
Trong quá trình chuyển đổi số, xây dựng văn hóa số giúp ngân hàng tạo ra nguồn nhân lực với tư duy đột phá sáng tạo, tạo ra các sáng kiến số đổi mới với khả năng thích ứng linh hoạt với thay đổi, từ đó đưa ngân hàng bước lên vị thế cao hơn trên thị trường.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?