Tác động của quy định mới về đăng kí biện pháp bảo đảm đến các tổ chức tín dụng
22/03/2023 3.535 lượt xem
Nghị định số 99/2022/NĐ-CP ngày 30/11/2022 của Chính phủ về đăng kí biện pháp bảo đảm (Nghị định số 99), có hiệu lực thi hành từ ngày 15/01/2023 được cho rằng sẽ đồng bộ hành lang pháp lí với Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (Nghị định số 21) và sẽ khắc phục được các tồn tại, hạn chế trong 05 năm triển khai Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đăng kí biện pháp bảo đảm (Nghị định số 102) như: Chưa ghi nhận tư cách của chi nhánh, phòng giao dịch của tổ chức tín dụng (TCTD) trong hoạt động đăng kí biện pháp bảo đảm; chưa ghi nhận tư cách của chủ doanh nghiệp tư nhân đối với các giao dịch bảo đảm bằng tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân; thời hạn giải quyết hồ sơ đăng kí biện pháp bảo đảm chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn; vấn đề xóa đăng kí biện pháp bảo đảm khi bên thế chấp thực hiện các thủ tục đăng kí biến động đất đai chưa thực sự rõ ràng,…
 
 

Một là, tạo cơ sở pháp lí rõ ràng, cụ thể cho các TCTD trong việc phân giao nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc trong việc xác lập các biện pháp bảo đảm cũng như đăng kí biện pháp bảo đảm.

Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 21/2013/TT-NHNN ngày 09/9/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (đã sửa đổi, bổ sung) quy định về mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại: “Mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại bao gồm chi nhánh, phòng giao dịch, văn phòng đại diện, đơn vị sự nghiệp ở trong nước; chi nhánh, văn phòng đại diện, ngân hàng 100% vốn ở nước ngoài theo quy định của pháp luật”. Thực tế hiện nay, chi nhánh và phòng giao dịch đều là các đơn vị thực hiện hoạt động ngân hàng theo phân công, chỉ định của pháp nhân nên đòi hỏi quy định về đăng kí biện pháp bảo đảm cần bổ sung, ghi nhận tư cách của chi nhánh và phòng giao dịch trong việc đứng tên người yêu cầu đăng kí biện pháp bảo đảm, người yêu cầu cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm.

Với quy định tại khoản 8 Điều 8 Nghị định số 99: “Trường hợp chi nhánh của pháp nhân, chi nhánh hoặc phòng giao dịch của pháp nhân là TCTD (gọi chung là chi nhánh) được pháp nhân giao nhiệm vụ thực hiện chức năng của pháp nhân về yêu cầu đăng kí, về yêu cầu cung cấp thông tin theo điều lệ, quy chế hoạt động hoặc theo ủy quyền, chỉ định của người đại diện hợp pháp của pháp nhân thì chi nhánh là người đứng tên người yêu cầu đăng kí, người yêu cầu cung cấp thông tin trên Phiếu yêu cầu đăng kí, Phiếu yêu cầu cung cấp thông tin… văn bản có nội dung về việc pháp nhân giao nhiệm vụ cho chi nhánh thực hiện chức năng của pháp nhân trong yêu cầu đăng kí, yêu cầu cung cấp thông tin là tài liệu phải có trong hồ sơ đăng kí, hồ sơ cung cấp thông tin”; và khoản 2 Điều 12 Nghị định số 99: “Trường hợp chi nhánh của pháp nhân đứng tên người yêu cầu đăng kí thì chữ kí, con dấu (nếu có) của pháp nhân được thay thế bằng chữ kí, con dấu (nếu có) của chi nhánh”. Việc ghi nhận tư cách của chi nhánh và phòng giao dịch tại Nghị định số 99 đã tạo cơ sở pháp lí rõ ràng, cụ thể cho các TCTD trong việc phân giao nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc trong việc xác lập các biện pháp bảo đảm cũng như đăng kí biện pháp bảo đảm.

Hai là, cụ thể hóa hoạt động đăng kí biện pháp bảo đảm đối với các giao dịch bảo đảm bằng tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân.

Theo Bộ luật Dân sự 2015, doanh nghiệp tư nhân là chủ thể không có tư cách pháp nhân, các giao dịch liên quan đến tài sản đứng tên doanh nghiệp tư nhân sẽ phải do chủ doanh nghiệp tư nhân xác lập, thực hiện. Trên cơ sở nguyên tắc này, hầu hết các TCTD yêu cầu chủ doanh nghiệp tư nhân kí kết hợp đồng bảo đảm đối với các biện pháp bảo đảm bằng tài sản đứng tên doanh nghiệp tư nhân, trong trường hợp tài sản được chứng nhận quyền sử dụng, sở hữu trong thời kì hôn nhân của chủ doanh nghiệp tư nhân và người hôn phối của chủ doanh nghiệp tư nhân thì hợp đồng bảo đảm còn phải có sự tham gia xác lập của người hôn phối.

Tuy nhiên, thực tế thực hiện Nghị định số 102 đã cho thấy, nhiều văn phòng đăng kí đất đai không chấp thuận phương thức thực hiện nêu trên của các TCTD mà yêu cầu vẫn phải ghi nhận, thể hiện trên hợp đồng bảo đảm, đơn đăng kí bảo đảm thông tin Bên thế chấp là doanh nghiệp tư nhân (mà không phải là chủ doanh nghiệp tư nhân) nhằm thống nhất, đảm bảo tính khớp đúng đối với chủ thể đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng tài sản (là doanh nghiệp tư nhân). Điều này dẫn đến hệ quả đã có không ít trường hợp TCTD, Bên thế chấp phải kí lại Hợp đồng thế chấp, thực hiện lại thủ tục công chứng/chứng thực do văn phòng đăng kí đất đai không chấp thuận đăng kí biện pháp bảo đảm.

Khoản 9 Điều 9, khoản 3 Điều 12 và khoản 6 Điều 37 Nghị định số 99 đã quy định cụ thể tư cách của chủ doanh nghiệp tư nhân trong việc đứng tên người yêu cầu đăng kí biện pháp bảo đảm: “Trường hợp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản thuộc doanh nghiệp tư nhân mà người yêu cầu đăng kí là bên bảo đảm thì có thể đứng tên người yêu cầu đăng kí là chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc tên doanh nghiệp tư nhân”, “Trường hợp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản thuộc doanh nghiệp tư nhân thì chữ kí trên Phiếu yêu cầu đăng kí là chữ kí của chủ doanh nghiệp tư nhân, sử dụng con dấu của doanh nghiệp tư nhân (nếu có) nếu kê khai người yêu cầu đăng kí là doanh nghiệp tư nhân”, “Bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất mà Giấy chứng nhận ghi tên doanh nghiệp tư nhân nhưng thông tin về bên bảo đảm trong hợp đồng bảo đảm là họ, tên của chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc họ, tên của chủ doanh nghiệp tư nhân và vợ, chồng của chủ doanh nghiệp tư nhân thì thông tin về bên bảo đảm trên Phiếu yêu cầu đăng kí theo thông tin được ghi trong hợp đồng bảo đảm”.

Ba là, làm rõ việc đăng kí đối với bất động sản thuộc quyền sử dụng, sở hữu chung của vợ chồng.

Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014, tài sản được chứng nhận quyền sử dụng, sở hữu trong thời kì hôn nhân của vợ chồng là tài sản chung (trừ trường hợp được thừa kế riêng, được tặng cho riêng…). Theo đó, đối với các giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất được chứng nhận quyền sử dụng, sở hữu trong thời kì hôn nhân của vợ chồng Bên thế chấp nhưng trên Giấy chứng nhận chỉ ghi họ, tên của vợ hoặc của chồng thì các TCTD sẽ yêu cầu cả 02 vợ chồng cùng tham gia xác lập hợp đồng thế chấp với ngân hàng (hoặc có thể theo phương thức người vợ hoặc người chồng ủy quyền cho người còn lại đại diện kí kết hợp đồng). Tuy nhiên, khi tiến hành đăng kí biện pháp bảo đảm, một số văn phòng đăng kí đất đai không chấp thuận vì cho rằng chủ thể xác lập hợp đồng thế chấp phải tương thích với chủ thể được ghi nhận trên Giấy chứng nhận, đồng nghĩa với việc chỉ người có tên trên Giấy chứng nhận mới được kí hợp đồng với TCTD. Trong trường hợp thực hiện theo quan điểm của Văn phòng đăng kí đất đai, TCTD sẽ đối mặt với rủi ro lớn nếu phát sinh tranh chấp với Bên thế chấp/Người có nghĩa vụ được bảo đảm bởi khi đó, Tòa án giải quyết tranh chấp thường sẽ có quan điểm tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu toàn bộ/một phần vì không có sự tham gia xác lập, kí kết của đầy đủ các chủ thể có quyền sử dụng, sở hữu đối với tài sản thế chấp.

Khoản 4 Điều 37 Nghị định số 99 đã tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nêu trên của các TCTD, cụ thể: “Tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thuộc tài sản chung của vợ chồng mà Giấy chứng nhận chỉ ghi họ, tên của vợ hoặc của chồng là người sử dụng đất, chủ sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất nhưng thông tin về bên bảo đảm trong hợp đồng bảo đảm bao gồm cả vợ và chồng thì người yêu cầu đăng kí kê khai thông tin về bên bảo đảm trên Phiếu yêu cầu đăng kí bao gồm cả vợ và chồng”.

Bốn là, pháp định hóa việc đăng kí biện pháp bảo đảm đối với các giao dịch bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên thứ ba.

Trong quá trình thi hành Nghị định số 102, một số cơ quan đăng kí có quan điểm không chấp thuận các giao dịch đăng kí biện pháp bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba vì cho rằng Nghị định số 102 không có quy định cụ thể về nội dung này. Mặc dù các trường hợp này chỉ là thiểu số nhưng cũng đã gây ra những khó khăn, ảnh hưởng nhất định đối với hoạt động nhận bảo đảm, đăng kí biện pháp bảo đảm của các TCTD. Nghị định số 99 đã quy định rõ tại điều khoản giải thích từ ngữ, theo đó: “Đăng kí biện pháp bảo đảm là việc cơ quan đăng kí ghi, cập nhật vào Sổ đăng kí hoặc vào Cơ sở dữ liệu về biện pháp bảo đảm về việc bên bảo đảm dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc của người khác hoặc đồng thời bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình và của người khác đối với bên nhận bảo đảm”; quy định này cũng đảm bảo tương thích, thống nhất với quy định tại khoản 3 Điều 4 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP: “Trường hợp chủ sở hữu tài sản và bên nhận bảo đảm thỏa thuận dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người khác thì áp dụng quy định về cầm cố tài sản, thế chấp tài sản”.

Năm là, bổ sung quy định về xóa đăng kí biện pháp bảo đảm khi thực hiện thủ tục đăng kí biến động đất đai.

Đối với các giao dịch nhận thế chấp bằng quyền sử dụng đất, trong quá trình thế chấp, Bên thế chấp có thể đề nghị TCTD cho thực hiện thủ tục tách thửa, hợp thửa hoặc các thủ tục đăng kí biến động đất đai khác liên quan đến diện tích, kích thước của thửa đất. Trường hợp TCTD chấp thuận, đa phần các văn phòng đăng kí đất đai đều sẽ yêu cầu TCTD phải giải chấp, phối hợp với Bên thế chấp thực hiện thủ tục xóa đăng kí biện pháp bảo đảm thì mới đồng ý thực hiện thủ tục tách thửa, hợp thửa hoặc các thủ tục đăng kí biến động đất đai khác liên quan đến diện tích, kích thước của thửa đất cho Bên thế chấp. Điều này sẽ dẫn đến rủi ro cho TCTD vì sau khi giải chấp, xóa đăng kí biện pháp bảo đảm và Bên thế chấp hoàn thiện các thủ tục có thể không phối hợp thế chấp quyền sử dụng đất lại cho ngân hàng, khoản vay của Bên thế chấp/Người có nghĩa vụ được bảo đảm do đó trở thành không có tài sản bảo đảm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của TCTD.

Khoản 4 và khoản 9 Điều 36 Nghị định số 99 đã tháo gỡ khó khăn, vướng mắc nêu trên của các TCTD; cụ thể: Văn phòng đăng kí đất đai không yêu cầu thực hiện việc đăng kí thay đổi hoặc không yêu cầu thực hiện xóa đăng kí mà chỉ thực hiện việc xác nhận thay đổi trên Giấy chứng nhận hoặc cấp đổi Giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật về đất đai đối với trường hợp có sự thay đổi thông tin của bên bảo đảm, trừ trường hợp thay đổi tên hoặc thay đổi về họ, tên; thay đổi thông tin về tài sản bảo đảm là thửa đất, nhà ở, công trình xây dựng hoặc tài sản khác gắn liền với đất so với thông tin trên Giấy chứng nhận do dồn điền đổi thửa, do đo đạc xác định lại diện tích, kích thước, do chia, tách, hợp nhất, sáp nhập mà không làm thay đổi quyền sử dụng, quyền sở hữu tài sản của bên bảo đảm đối với tài sản này. Trường hợp người sử dụng đất, chủ sở hữu nhà ở, chủ sở hữu công trình xây dựng hoặc chủ sở hữu tài sản khác gắn liền với đất có yêu cầu đăng kí biến động đất đai do đo đạc xác định lại diện tích, gia hạn thời hạn sử dụng đất trước khi chấm dứt thời hạn sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất hoặc trường hợp khác theo quy định của pháp luật về đất đai thì văn phòng đăng kí đất đai không yêu cầu xóa đăng kí đối với nội dung biện pháp bảo đảm đã được đăng kí trước khi thực hiện thủ tục đăng kí biến động đất đai.

Sáu là, loại bỏ yêu cầu sửa đổi tiêu đề của hợp đồng bảo đảm trong quá trình đăng kí biện pháp bảo đảm.

Đối với các giao dịch thế chấp bất động sản bảo đảm cho bên thứ ba, một số TCTD quy định tiêu đề của hợp đồng là “Hợp đồng thế chấp bất động sản để bảo đảm cho nghĩa vụ của người khác”. Tuy nhiên khi tiến hành thủ tục đăng kí biện pháp bảo đảm, phát sinh trường hợp cơ quan đăng kí biện pháp bảo đảm không chấp thuận tiêu đề của hợp đồng và yêu cầu TCTD, Bên thế chấp sửa đổi lại tiêu đề như: “Hợp đồng thế chấp bất động sản” hoặc “Hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba”. Về mặt pháp lí, căn cứ quy định của pháp luật hiện hành, việc điều chỉnh tiêu đề hợp đồng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực, giá trị pháp lí của hợp đồng, tuy nhiên điều này sẽ dẫn đến phiền hà, phát sinh thêm nhiều thủ tục cho TCTD, Bên thế chấp khi phải kí lại Hợp đồng thế chấp và công chứng/chứng thực lại chỉ để sửa đổi tiêu đề của hợp đồng.

Giải quyết vướng mắc nêu trên, Nghị định số 99 quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của cơ quan đăng kí tại khoản 2 Điều 5:“Cơ quan đăng kí phải thực hiện đúng thẩm quyền, nhiệm vụ, căn cứ, thủ tục và thời hạn; không làm phát sinh thủ tục khác với quy định của Nghị định; không yêu cầu nộp thêm bất cứ giấy tờ nào hoặc không yêu cầu kê khai thêm bất cứ thông tin nào mà Nghị định không quy định trong hồ sơ đăng kí; không yêu cầu sửa lại tên hợp đồng bảo đảm, nội dung thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm; phải chịu trách nhiệm trước pháp luật trong trường hợp vi phạm nguyên tắc này…”.

Bảy là, cụ thể hóa thời hạn giải quyết hồ sơ đăng kí.

Tương tự Nghị định số 102, đối với thời hạn giải quyết hồ sơ đăng kí, Nghị định số 99 quy định cơ quan đăng kí có trách nhiệm giải quyết hồ sơ đăng kí trong ngày làm việc nhận được hồ sơ hợp lệ, nếu thời điểm nhận hồ sơ sau 15 giờ cùng ngày thì có thể hoàn thành việc đăng kí trong ngày làm việc tiếp theo; trường hợp cơ quan đăng kí có lí do chính đáng phải kéo dài thời gian giải quyết hồ sơ đăng kí thì thời hạn giải quyết hồ sơ không quá 03 ngày làm việc.

Tuy nhiên, so với Nghị định số 102, Nghị định số 99 đã bổ sung thêm quy định về trách nhiệm của cơ quan đăng kí (Điều 16): “Trong trường hợp cơ quan đăng kí có lí do chính đáng phải kéo dài thời gian giải quyết hồ sơ đăng kí thì thời hạn giải quyết hồ sơ không quá 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Trong trường hợp này, cơ quan đăng kí phải thông báo có nêu rõ lí do cho người yêu cầu đăng kí bằng bản giấy hoặc văn bản điện tử hoặc bằng hình thức khác thuận lợi cho người yêu cầu đăng kí và phù hợp với điều kiện của cơ quan đăng kí ngay khi có lí do chính đáng”.

Việc bổ sung quy định về trách nhiệm thông báo của cơ quan đăng kí là thiết thực, giúp bảo vệ quyền lợi của TCTD vì trên cơ sở văn bản thông báo của cơ quan đăng kí, TCTD có thể thông tin cho Bên được cấp tín dụng, Bên bảo đảm về sự kiện hồ sơ đăng kí bị kéo dài thời gian xử lí do cơ quan đăng kí có lí do chính đáng, hạn chế các trường hợp Bên được cấp tín dụng khiếu nại TCTD vì cho rằng TCTD chậm trễ cấp tín dụng, giải ngân dẫn đến quyền lợi của Bên được cấp tín dụng bị ảnh hưởng (trong khi việc chậm cấp tín dụng, giải ngân do chưa hoàn thiện thủ tục về biện pháp bảo đảm không phải là lỗi của TCTD).

Tám là, thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động đăng kí biện pháp bảo đảm.

Theo Nghị định số 99, trường hợp hồ sơ đăng kí được nộp qua hệ thống đăng kí trực tuyến thì chữ kí, con dấu trong một số trường hợp (quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 8 Điều 12) có thể được thay thế bằng chữ kí điện tử, con dấu điện tử. Chữ kí điện tử, con dấu điện tử có giá trị pháp lí như chữ kí, con dấu được sử dụng trên văn bản giấy; trường hợp kết quả đăng kí được trả bằng bản điện tử thì kết quả bằng bản điện tử có giá trị pháp lí như kết quả bằng bản giấy và bổ sung về hình thức của Sổ đăng kí (có thể là sổ giấy, sổ điện tử hoặc đồng thời là sổ điện tử).

Theo đó, Nghị định số 99 đã góp phần tạo cơ sở pháp lí cho việc triển khai số hóa hồ sơ, thủ tục liên quan đến hoạt động nhận bảo đảm, đăng kí biện pháp bảo đảm tại các TCTD. Việc quy định công nhận giá trị pháp lí của chữ kí điện tử, con dấu điện tử cũng phù hợp với xu thế của thời đại công nghệ số và bối cảnh các TCTD đang triển khai đẩy mạnh mục tiêu chuyển đổi ngân hàng số.
 
Tài liệu tham khảo:

1. Bộ luật Dân sự 2015; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
2. Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đăng kí biện pháp bảo đảm.
3. Nghị định số 99/2022/NĐ-CP ngày 30/11/2022 của Chính phủ về đăng kí biện pháp bảo đảm.
4. Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
5. Thông tư số 21/2013/TT-NHNN ngày 09/9/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại.
6. Thông tư số 01/2022/TT-NHNN ngày 28/01/2022 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 21/2013/TT-NHNN ngày 09/9/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại.
 
ThS. Hoàng Minh Tú
 
 
 

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
22/04/2024 239 lượt xem
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động ngân hàng cũng không nằm ngoài sự chuyển đổi đó. Tại Việt Nam, những năm gần đây, ngành Ngân hàng luôn là một trong những ngành có tỉ lệ chuyển đổi số nhanh nhất.
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
17/04/2024 586 lượt xem
Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật để thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư trong nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế, hình ảnh của nước ta trên trường quốc tế.
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính -  Một số khuyến nghị cho Việt Nam
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính - Một số khuyến nghị cho Việt Nam
12/04/2024 1.018 lượt xem
Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia, góp phần thúc đẩy và mở rộng khả năng tiếp cận tài chính của dân số, qua đó khuyến khích tiết kiệm và đầu tư đối với hộ gia đình và doanh nghiệp, tạo cơ hội phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ, mở rộng khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm và thu nhập, góp phần hạn chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính.
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
16/03/2024 3.524 lượt xem
Năm 2024, kinh tế thế giới dự báo tiếp tục khó khăn dưới tác động của điều kiện tài chính thắt chặt, mặt bằng lãi suất còn cao, xung đột địa chính trị, rủi ro tài chính gia tăng, lạm phát có dấu hiệu chậm lại nhưng vẫn cao…; ở trong nước, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức do bối cảnh cầu thế giới, thương mại quốc tế chậm phục hồi, bảo hộ thương mại gia tăng; sản xuất, kinh doanh tiếp tục khó khăn, mức độ hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn tương đối thấp; những khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản vẫn chưa được xử lý căn cơ, đòi hỏi các cấp, bộ, ngành Trung ương và địa phương tiếp tục triển khai nhiều giải pháp tổng thể hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
15/03/2024 3.112 lượt xem
Ngày 07/11/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước, có hiệu lực thi hành từ ngày 22/12/2023.
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
14/03/2024 6.365 lượt xem
Giai đoạn từ năm 2022 đến nay, trước bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) liên tục tăng lãi suất, NHNN đã điều hành tỷ giá tương đối ổn định, đặc biệt là tỷ giá với các ngoại tệ như Đô la Mỹ, Euro và các ngoại tệ khác tại các quốc gia có quan hệ giao thương đáng kể với Việt Nam nhằm duy trì ổn định vĩ mô trong nước, hỗ trợ đầu tư, sản xuất phát triển.
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
13/03/2024 3.170 lượt xem
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân đối với Dự thảo Nghị định quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng (sau đây gọi tắt là Dự thảo Nghị định).
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
06/03/2024 3.252 lượt xem
Một trong những sứ mệnh của chuyển đổi số là phổ cập, cá nhân hóa dịch vụ số như giáo dục, y tế, ngân hàng để hướng tới người dân. Ngành Ngân hàng luôn phấn đấu tạo điều kiện thuận lợi cho người dân sử dụng dịch vụ trên môi trường điện tử, trong đó có hướng đến phổ cập tài chính tới vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
05/03/2024 8.710 lượt xem
Ngày 18/01/2024, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 với 15 chương, 210 điều. Luật Các TCTD năm 2024 đã bám sát quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước; khắc phục các vướng mắc, bất cập hiện tại; tham khảo thông lệ, kinh nghiệm quốc tế và phù hợp chiến lược phát triển ngành Ngân hàng. Xuất phát từ đó, bài viết tập trung làm rõ những điểm mới, nổi bật của Luật này.
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/02/2024 3.194 lượt xem
Trải qua hơn 10 năm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, công tác thống kê tiền tệ phục vụ điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có nhiều bước tiến đáng kể.
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
24/02/2024 4.301 lượt xem
Năm 2023 vừa qua đã chứng kiến những biến động mạnh mẽ trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) trên thế giới, nổi bật là việc các ngân hàng trung ương (NHTW) liên tục tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát.
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
13/02/2024 3.161 lượt xem
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các nước đã thừa nhận sự cần thiết của chính sách an toàn vĩ mô (ATVM) trong ổn định tài chính và đặt chính sách ATVM vào vị trí trung tâm của sự tương tác giữa các chính sách kinh tế vĩ mô với chính sách an toàn vi mô.
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
11/02/2024 3.984 lượt xem
Nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2023 được triển khai trong bối cảnh tình hình thế giới phát sinh nhiều biến động, diễn biến phức tạp, khó dự báo. Căng thẳng địa chính trị, tranh chấp giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, xung đột giữa Nga - Ukraine và Israel - Hamas diễn biến bất ngờ, lạm phát và giá nhiên liệu tăng cao khiến đà phục hồi của kinh tế thế giới chậm lại.
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
07/02/2024 3.470 lượt xem
Thời gian qua, tín dụng tiêu dùng phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 20%/năm, từng bước góp phần giúp người dân, đặc biệt là những người yếu thế tiếp cận được các dòng vốn chính thức; hạn chế tình trạng tín dụng đen.
Bài toán tín dụng năm 2023 và lời giải cho năm 2024
Bài toán tín dụng năm 2023 và lời giải cho năm 2024
31/01/2024 3.774 lượt xem
Năm 2023 đã đi qua với nhiều câu chuyện kinh tế nổi bật và một trong những vấn đề thu hút được sự quan tâm rất lớn trong hoạt động của ngành Ngân hàng là vấn đề tăng trưởng tín dụng.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?