Sức sống và triển vọng kinh tế Việt Nam 2022
27/04/2022 2.966 lượt xem

1. Mục tiêu và dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam

Theo Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình, Việt Nam đặt mục tiêu phục hồi, phát triển nhanh hoạt động sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy các động lực tăng trưởng, ưu tiên một số ngành, lĩnh vực quan trọng, phấn đấu đạt mục tiêu của giai đoạn 2021 - 2025: Tăng trưởng GDP bình quân 6,5 - 7%/năm, chỉ tiêu nợ công dưới mức cảnh báo Quốc hội cho phép tại Nghị quyết số 23/2021/QH15, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn trong trung hạn và dài hạn; tiết giảm chi phí, hỗ trợ dòng tiền, bảo đảm tính chủ động, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và người dân; phòng, chống dịch Covid-19 hiệu quả; bảo đảm an sinh xã hội và đời sống của người dân, nhất là người lao động, người nghèo, người yếu thế, đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Theo Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025, Việt Nam phấn đấu đến năm 2025 đạt mục tiêu:

- Cả nước có khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp (khoảng 60.000 đến 70.000 doanh nghiệp quy mô vừa và lớn); tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP khoảng 55%; số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 15%/năm giai đoạn 2021 - 2025; có khoảng 35.000 hợp tác xã (trên 3.000 hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và tiêu thụ nông sản), khoảng 50% hợp tác xã nông nghiệp liên kết với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị; tối thiểu có 5 - 10 sản phẩm quốc gia xây dựng được thương hiệu quốc tế.

- Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân trên 6,5%/năm, trong đó tốc độ tăng năng suất lao động ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 6,5 - 7%/năm, tốc độ tăng năng suất lao động của các vùng kinh tế trọng điểm và 05 thành phố trực thuộc trung ương cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động trung bình cả nước. Đến năm 2025, thu hẹp khoảng cách về năng lực cạnh tranh quốc gia với các nước trong nhóm ASEAN-4, đặc biệt đối với các chỉ số về thể chế, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực.

- Tỷ lệ bội chi ngân sách Nhà nước giai đoạn 2021 - 2025 bình quân 3,7% GDP. Giảm tối thiểu 10% tổng số đơn vị sự nghiệp công lập so với năm 2021, có tối thiểu 20% đơn vị tự chủ tài chính. Quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt tối thiểu 85% GDP, dư nợ thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 47% GDP, dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt khoảng 20% GDP. Tỷ trọng chi cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt không dưới 1% GDP.

Theo Báo cáo hàng năm "Triển vọng kinh tế khu vực ASEAN+3 năm 2022" công bố ngày 12/4/2022, Văn phòng Nghiên cứu kinh tế vĩ mô ASEAN+3 (AMRO) dự báo: Năm 2022, Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng 6,5% GDP và lạm phát 3,4% (còn năm 2023 các con số sẽ tương ứng là 7% và 3%). Tăng trưởng GDP của ASEAN+3 (gồm các nước ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) năm 2022 đạt 4,7% và đạt mức 4,6% vào năm 2023. Trong đó, mức tăng trưởng của ASEAN năm 2022 là 5,1% và 5,2% vào năm 2023.

Ước tính và dự báo tăng trưởng GDP của ASEAN+3 năm 2022 - 2023
 
 
                                                                                                                                                                               Nguồn: AMRO

Báo cáo Triển vọng Phát triển châu Á 2022 được Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) công bố ngày 06/4/2022 dự báo, trong năm 2022, kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi ở mức 6,5% và đạt mức 6,7% trong năm 2023; xuất khẩu hàng hóa sẽ tăng 8 - 10%; nhập khẩu sẽ tăng do nhu cầu về tư liệu sản xuất và đầu vào cho công nghiệp chế biến, chế tạo tăng lên và tiêu dùng trong nước phục hồi trở lại; thặng dư tài khoản vãng lai ở mức 1,5% GDP (và 2,0% GDP vào năm 2023); tăng trưởng công nghiệp khoảng 9,5%​; sản lượng nông nghiệp tăng 3,5%; ngành dịch vụ tăng 5,5%; lạm phát 3,8% (và 4,0% vào năm 2023).

Còn trong Báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương kỳ tháng 4/2022 với chủ đề "Đương đầu bão tố", Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo kinh tế Việt Nam đang phục hồi và sẽ tăng trưởng 5,3% trong năm 2022 (giảm so với mức 6,5% theo dự báo WB đưa ra trong tháng 10/2021). Thậm chí, GDP có thể chỉ tăng 4% trong kịch bản xấu (nếu giá dầu mỏ và nguyên vật liệu kim loại có xu hướng tăng cao) và phục hồi lại mức tăng 6% và 6,5% lần lượt vào các năm 2023 và 2024.  

Trước đó, ngày 28/3/2022, tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế Fitch Ratings dự báo tăng trưởng của Việt Nam sẽ phục hồi lên mức 6,1% vào năm 2022 và 6,3% vào năm 2023. Fitch Ratings cũng công bố xếp hạng mặc định của nhà phát hành ngoại tệ dài hạn của Việt Nam ở mức "BB" với Triển vọng tích cực.

Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo Việt Nam sẽ tăng trưởng 6% năm 2022 và 7,2% vào năm 2023. Lạm phát được dự báo tăng lên mức 3,9% vào cuối năm 2022.

Nhiều ước tính lạc quan hơn cho rằng GDP Việt Nam sẽ tăng mạnh từ mức 2,9% năm 2021 lên 7 - 7,5% vào năm 2022; tổng mức bán lẻ (loại trừ yếu tố giá) sẽ tăng 5% trong 2022. Lợi nhuận của các ngân hàng cũng sẽ tiếp tục tăng nhờ vào mục tiêu tăng trưởng tín dụng 14% và đa phần tài sản bảo đảm là bất động sản tiếp tục tăng giá trong thời gian 2020 - 2022; cơ cấu khoản vay được cải thiện và chi phí huy động vốn thấp. Thậm chí, Capital Economics (Công ty tư vấn nghiên cứu kinh tế có trụ sở ở London) dự báo kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục phục hồi và GDP sẽ tăng trưởng 8,8% trong năm 2022, cao hơn so với mục tiêu kế hoạch chỉ là 6,0-6,5% và so với mức 2,58% của năm 2021.

2. Nền tảng và giải pháp tăng trưởng bền vững ở Việt Nam
 
Sự hội tụ cảm hứng trạng thái lạc quan về sức sống, sự phục hồi và triển vọng tích cực của kinh tế Việt Nam là điểm chung của các dự báo quốc tế khác nhau và chúng cơ bản dựa trên cơ sở thực tế tin cậy, mà nổi bật là:

Thứ nhất, Việt Nam sớm quyết đoán từng bước mở cửa, nới lỏng các kiểm soát dịch bệnh, thích ứng linh hoạt, an toàn với dịch  bệnh, sớm khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế quay trở lại với cuộc sống bình thường mới. Quyết định này được khởi đầu từ cuối quý IV/2021 trên cơ sở nỗ lực của Chính phủ đã triển khai thành công chiến dịch ngoại giao vắc-xin và tiêm chủng toàn quốc, từ đó đưa Việt Nam trở hành một trong 6 nước có tỷ lệ bao phủ vắc-xin cao nhất thế giới, với trên 78% dân số đã được tiêm đủ liều vắc-xin ngừa Covid-19. Điều này giúp Việt Nam cải thiện 28 bậc lên vị trí thứ 90 trong bảng "Chỉ số phục hồi Covid-19" của Nikkei công bố trong tháng 01/2022. Có thể nói, việc chấm dứt thành công và an toàn chuỗi ngày giãn cách xã hội diện rộng trước đó trên phạm vi toàn quốc là chiến thắng ngoạn mục, có tính quyết định khởi đầu cho quá trình phục hồi và tăng tốc kinh tế, tạo niềm tin và đồng thuận xã hội ngày càng khả quan của Việt Nam.

Thứ hai, các thành quả đạt được trong thập kỷ trước và các tiềm năng tăng trưởng trung hạn của Việt Nam vẫn được duy trì; đặc biệt, sự ổn định chính trị - xã hội, các chuỗi cung ứng sớm được khôi phục và da dạng hóa, niềm tin đầu tư được giữ vững, lạm phát được kiểm soát, nợ công ổn định và dự trữ ngoại hối đạt mức cao kỷ lục… Tất cả tạo bộ đệm để Việt Nam ứng phó với các cú sốc từ bên ngoài, đẩy nhanh thời gian mở cửa du lịch, tạo sự bùng nổ trở lại du khách nội địa, tăng thu hút khách quốc tế cũng tới 89,1%, khôi phục sản xuất kinh doanh và nâng mức tăng trưởng GDP quý I/2022 lên 5,03% so với cùng kỳ năm trước…

Thứ ba, động lực cho sức sống và phục hồi nhanh kinh tế Việt Nam còn được nhân lên từ sự thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và khai thác các cơ hội xuất khẩu từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam (EVFTA), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA) và Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP). Nhờ đó, Việt Nam đã và đang tiếp tục mở rộng quy mô thương mại quốc tế và hình thành các thị trường xuất khẩu ổn định, đáng tin cậy. Quý I/2022 so với cùng kỳ năm 2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 176 tỷ USD, tăng 14,4%; trong đó, xuất khẩu tăng 12,9%, riêng các nhóm hàng nông sản tăng khoảng 18 - 19%; cá biệt, cà phê, gạo, thủy sản tăng từ 38% đến gần 50% và xuất khẩu thủy sản tăng 38,7%. Việt Nam tiếp tục xuất siêu 809 triệu USD trong quý I/2022 và dự báo sẽ gia tăng trong thời gian tới.

Dòng vốn FDI chảy vào và thực hiện suốt thời gian đại dịch vừa qua vẫn duy trì trạng thái khả quan. Trong năm 2020, dòng vốn FDI vào Việt Nam chỉ giảm 2%, trong khi thế giới giảm 40%; năm 2021, dòng vốn FDI vào Việt Nam không giảm; quý I/2022, vốn FDI thực hiện đạt 4,4 tỷ USD, cao nhất cùng kỳ từ năm 2018 đến nay. Trên thực tế đã và đang ghi nhận nhiều dự án FDI mới công nghệ cao (như dự án 2,2 tỷ USD vào năm 2021 của LG Display; Toshiba sẽ chuyển toàn bộ sản xuất điện tử ở Trung Quốc sang Việt Nam và Nhật Bản), hoặc các dự án cũ tiếp tục mở rộng đầu tư (như Samsung sẽ nâng cấp lên 50% năng lực sản xuất ở Việt Nam cho các thiết bị có tính năng gập lại được).
 


Việt Nam cần tăng cường bộ đệm an toàn cho hệ thống tài chính, kiểm soát vốn vay bị sử dụng sai mục đích, tránh tập trung vốn vào các lĩnh vực rủi ro như cổ phiếu và bất động sản (Nguồn ảnh: Internet)
 
Sự lạc quan của cộng đồng doanh nghiệp còn được củng cố nhờ môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng được cải thiện. Theo Phòng Thương mại châu Âu tại Việt Nam, Chỉ số môi trường kinh doanh quý IV/2021 của Việt Nam được các doanh nghiệp châu Âu đánh giá tích cực không chỉ nhờ thành tựu chống dịch, sớm bình thường hóa hoạt động kinh tế, mà còn vì Việt Nam là nền kinh tế tự do đứng thứ 17/40 quốc gia ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và đứng thứ 90/184 nền kinh tế trên thế giới theo bảng xếp hạng về Chỉ số tự do kinh tế năm 2021 (Index of Economic Freedom 2021). Đây cũng là năm đầu tiên kinh tế Việt Nam bước vào nhóm các nền kinh tế có "tự do trung bình" (Moderately Free), tăng 15 bậc so với năm trước.

Thứ tư, nội lực được phát huy nhờ cộng đồng doanh nghiệp ở Việt Nam đang chủ động và linh hoạt hơn trong nắm bắt, đa dạng hóa, nâng cao sức cạnh tranh và uy tín, đáp ứng nhanh và tốt hơn các nhu cầu biến đổi của thị trường. Trong quý I/2022, số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động tăng 36,7% so với cùng kỳ năm 2021; tổng vốn đăng ký vào nền kinh tế tăng 21%, trong đó vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp đang hoạt động tăng 34,5%. Có tới 82,3% doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được Tổng cục Thống kê khảo sát về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý II/2022 với đánh giá sẽ ổn định và tốt hơn so với quý I/2022.

Đặc biệt, sức sống và động lực mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế năm 2022 còn được cộng hưởng từ điều hành kinh tế linh hoạt, sự cộng hưởng các chính sách hỗ trợ về tài chính, tín dụng (giảm, giãn nộp thuế, tiền thuê đất, phí trước bạ, lãi suất và thời hạn trả nợ), mở rộng đầu tư công, tăng cường cải cách thể chế, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và chuyển đổi số. Quốc hội đã phê chuẩn gói giải pháp tài khóa và tiền tệ lớn với quy mô 347.000 tỷ đồng (khoảng 15 tỷ USD) để triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế (ERDP) trong năm 2022 và 2023. Các tổ chức tín dụng tiếp tục ​​giảm lãi suất cho vay 0,5 - 1% và các biện pháp hỗ trợ tín dụng đến hết năm 2023, với tổng mức hỗ trợ lãi suất lên đến 40 nghìn tỷ đồng (khoảng 1,7 tỷ USD). Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trong quý I/2022 tăng 8,9% và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện đạt mức trên 9%, cao nhất so với quý I của các năm 2018 - 2022.

Lạc quan, tin tưởng và quyết tâm cao, nhưng thận trọng và quyết liệt trong chỉ đạo, Chính phủ nhận định tình hình những tháng tới sẽ tiếp tục có khó khăn, thách thức nhiều hơn thuận lợi và nhiều diễn biến không dự báo được, yêu cầu các bộ, cơ quan, địa phương theo dõi, dự báo sát tình hình, kịp thời có giải pháp khắc phục khó khăn, chủ động khai thác các cơ hội nhằm triển khai có hiệu quả cao nhất các nhiệm vụ, giải pháp của Chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025 vừa được ban hành theo Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022; nỗ lực tạo đột phá nâng cao chất lượng, hiệu quả của cải cách hành chính; gắn kết công tác cải cách hành chính của các bộ, ngành, địa phương với việc xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số, tăng cường trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, đơn vị và người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp; thực hiện việc số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết thủ tục hành chính tại bộ phận “một cửa” cấp bộ, cấp tỉnh từ ngày 01/6/2022, tại bộ phận “một cửa” cấp huyện từ ngày 01/12/2022; tích hợp, cung cấp 100% các dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia; thực hiện hiệu quả cơ chế một cửa quốc gia và cơ chế một cửa ASEAN...

Thứ năm, tiếp tục chủ động nhận diện và tháo gỡ các khó khăn trong tăng trưởng.

Trên thực tế, để phục hồi nhanh và tăng trưởng bền vững, Việt Nam cần nhận diện và tháo gỡ các trở ngại, như: Các diễn biến phức tạp và thiếu thống nhất trong chính sách kiểm soát dịch Covid-19; nhận diện đầy đủ và khắc phục tình trạng gia tăng bất bình đẳng tiền tệ và phi tiền tệ do hậu quả của cuộc khủng hoảng Covid-19; chủ động các kịch bản đối phó với khả năng tốc độ phục hồi kinh tế toàn cầu chậm lại, nhất là khả năng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng chế biến, chế tạo sẽ tăng với tốc độ chậm hơn do tăng trưởng ở các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) và Trung Quốc đang chững lại; giá dầu, giá chi phí vật liệu xây dựng và lạm phát thế giới tăng cao, những bất ổn trên thị trường tài chính toàn cầu gắn với cú sốc tỷ giá thương mại do căng thẳng Nga-Ukraine, các biện pháp trừng phạt liên quan và việc các nước phát triển tăng lãi suất làm thay đổi dòng vốn đầu tư quốc tế, khiến chi phí vốn tăng, nhập khẩu đắt hơn và gia tăng áp lực lạm phát, nợ xấu trong nước. Việt Nam cũng cần tăng cường bộ đệm an toàn cho hệ thống tài chính, kiểm soát vốn vay bị sử dụng sai mục đích, tránh tập trung vốn vào các lĩnh vực rủi ro như cổ phiếu và bất động sản. Ngoài ra, sự thận trọng đầu tư và tiêu dùng của khu vực tư nhân và tiến độ giải ngân vốn đầu tư công chậm có thể sẽ làm giảm tác động kỳ vọng đối với tăng trưởng. Việc cải thiện hơn nữa tài chính công thông qua củng cố tài khóa bền vững, khắc phục những yếu kém trong lĩnh vực ngân hàng về vốn hóa, minh bạch về chất lượng tài sản và khuôn khổ pháp lý sẽ là những yếu tố tích cực giúp cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia trong thời gian tới.

Hơn nữa, theo WB, mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế thu nhập trung bình cao sẽ phụ thuộc vào năng lực thể chế và khả năng chuyển đổi nhanh sang mô hình tăng trưởng dựa vào năng suất và đổi mới sáng tạo, tập trung vào xây dựng nền kinh tế chuyển đổi số, xanh hơn và có khả năng chống chịu tốt hơn trước các cú sốc từ bên ngoài; tiếp tục cải thiện và nâng cao vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu; phát triển các ngành dịch vụ theo chiều sâu, tạo thêm động lực cho việc tăng năng suất khu vực dịch vụ và khu vực sản xuất kinh doanh cùng nhiều lĩnh vực khác của nền kinh tế. Đồng thời, phát triển và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, mặc dù tỷ lệ nghèo được kỳ vọng sẽ giảm trong năm 2022.

Đặc biệt, thực tế hiện nay cho thấy, giá dầu cao, sự đứt gãy các chuỗi cung ứng toàn cầu truyền thống cùng với dịch Covid-19  đã, đang và sẽ là cộng lực thúc đẩy lạm phát và nợ công, cùng với những áp lực an sinh xã hội tăng cao… đòi hỏi các nước cần có các giải pháp phù hợp mới trên cơ sở bảo đảm an ninh chính đáng, hài hòa lợi ích và phát triển bền vững, nếu không muốn nhận thêm những thảm họa nhân tạo với quy mô và hệ lụy mới, nặng nề hơn, cả trong ngành năng lượng, cũng như trong các lĩnh vực kinh tế khác, cả vĩ mô và vi mô, cả ở mỗi nước và trên phạm vi toàn cầu… Đối với Việt Nam, để giảm thiểu tác động tiêu cực của tăng giá xăng dầu, một mặt, các cơ quan hữu quan chủ động xây dựng các kịch bản và các giải pháp thích ứng hiệu quả trên cơ sở bám sát và dự báo tốt, tăng cường chất lượng thông tin về những biến động thị trường và địa chính trị quốc tế trong thời gian tới; chủ động đa dạng hóa nguồn cung dầu trong nước và thế giới; tìm cách tiếp cận an toàn với nguồn dầu giá rẻ và với phương thức thanh toán phù hợp; tăng dự trữ quốc gia về dầu mỏ và thay đổi cơ chế quỹ bình ổn giá xăng dầu hiện hành theo hướng chuyển nhập quỹ này vào quỹ dự trữ xăng dầu quốc gia; linh hoạt hóa mức thu ngân sách Nhà nước và giảm các chi phí trong giá cơ sở xăng dầu; mặt khác, cần chủ động gia tăng sản xuất và sử dụng các năng lượng thay thế phi dầu mỏ, nhất là năng lượng sạch, tái tạo; đồng thời, vận động người dân, doanh nghiệp tiết giảm sử dụng xăng dầu cả trong sản xuất kinh doanh và trong sinh hoạt; nghiêm cấm và xử phạt kịp thời đủ sức răn đe các hành vi đầu cơ, trục lợi, găm giữ gây khan hiếm giả tạo xăng dầu trên thị trường.
 
Tài liệu tham khảo:

1. Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình.
2. Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021 - 2025.
3. Báo cáo Triển vọng Phát triển châu Á 2022 được Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) công bố ngày 06/4/2022.
4. Báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Đông Á và Thái Bình Dương kỳ tháng 4/2022 với chủ đề "Đương đầu bão tố" của WB.
5. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2022/03/thong-cao-bao-chi-ve-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-i-nam-2022/

Minh Phong
 

       

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Nâng cao hiệu quả quản lý gian lận số tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nâng cao hiệu quả quản lý gian lận số tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
24/04/2024 188 lượt xem
Thời gian qua, quá trình số hóa diễn ra liên tục và mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và đã mang lại những lợi ích đáng kể cho sự ổn định của khu vực tài chính nói riêng, sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Nhờ quá trình này mà các tổ chức tài chính có khả năng cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính, ngân hàng với chi phí thấp hơn, giúp nâng cao trải nghiệm và khả năng tiếp cận sản phẩm, dịch vụ của khách hàng, tăng cường minh bạch trong giao dịch tài chính và phản ứng nhanh chóng với các cuộc khủng hoảng.
Chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức, doanh nghiệp - định hướng  phát triển trong thời đại 4.0
Chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức, doanh nghiệp - định hướng phát triển trong thời đại 4.0
23/04/2024 202 lượt xem
Dữ liệu đóng vai trò thiết yếu trong hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp. Việc chia sẻ dữ liệu mở ra những cơ hội mới, tạo thêm nhiều giá trị, đồng thời góp phần bồi đắp kho dữ liệu hiện có, khai phá tiềm năng tối ưu hóa và đổi mới mô hình kinh doanh.
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đám bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đám bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
19/04/2024 0 lượt xem
Do nhu cầu tài chính phục vụ cho quá trình chuyển đổi của các doanh nghiệp ngày càng cao nên thị trường tín dụng liên kết bền vững toàn cầu tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Việt Nam cần nhanh chóng thúc đẩy và mở rộng hoạt động cho vay nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp ở đa dạng ngành, nghề thực hiện chiến lược phát triển bền vững.
Thực hiện tăng trưởng xanh - Tiền đề cho phát triển bền vững của Việt Nam
Thực hiện tăng trưởng xanh - Tiền đề cho phát triển bền vững của Việt Nam
12/04/2024 1.033 lượt xem
Phát triển bền vững đang là mục tiêu quan trọng của Việt Nam trong những năm qua và trong tương lai, theo đó tăng trưởng xanh với sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường chính là tiền đề để thực hiện mục tiêu này.
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
10/04/2024 1.075 lượt xem
Bài viết đề xuất một số khuyến nghị về xây dựng, thực thi chính sách tín dụng liên kết bền vững để góp phần đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và chiến lược phát triển bền vững tại Việt Nam...
Thực tiễn triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Thực tiễn triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
05/04/2024 1.357 lượt xem
Nghiên cứu trình bày về tầm quan trọng của ESG (Environmental - môi trường, Social - xã hội, Governance - quản trị) trong quá trình phát triển bền vững của ngân hàng, thực tiễn triển khai các hoạt động về ESG, các kết quả đạt được và thách thức, từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩy triển khai ESG trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.
Tác động của minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Tác động của minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
03/04/2024 1.249 lượt xem
Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu tác động của tính minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate social responsibility - CSR) đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng.
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
02/04/2024 1.142 lượt xem
Bài viết dựa trên cơ sở tổng quan về giám sát tài chính, tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới để rút ra một số bài học và khuyến nghị đối với công tác giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước tại Việt Nam hiện nay.
Kinh nghiệm thực thi chính sách tài chính khí hậu trên thế giới và một số khuyến nghị cho Việt Nam
Kinh nghiệm thực thi chính sách tài chính khí hậu trên thế giới và một số khuyến nghị cho Việt Nam
01/04/2024 1.140 lượt xem
Một trong những vấn đề khó khăn nhất hiện nay đối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, đó là việc thiếu nguồn lực tài chính để ứng phó với biến đổi khí hậu, hay còn gọi là tài chính khí hậu...
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/03/2024 1.222 lượt xem
Để nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ NHNN phù hợp thông lệ quốc tế và các quy định về kiểm toán nội bộ của Việt Nam, một trong những yêu cầu hiện nay là nghiên cứu, rà soát, ban hành Sổ tay Kiểm toán nội bộ NHNN nhằm tập hợp, hệ thống hóa các quy định chung về kiểm toán nội bộ của NHNN.
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
25/03/2024 1.619 lượt xem
Trong kỉ nguyên số, Chatbot đóng vai trò vô cùng quan trọng và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, trong đó có lĩnh vực ngân hàng.
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
22/03/2024 2.367 lượt xem
Trong thị trường kinh tế, giao dịch phái sinh là một dạng hợp đồng dựa trên giá trị các loại tài sản cơ sở khác nhau như hàng hóa, chỉ số, lãi suất hay cổ phiếu (giấy tờ có giá).
Văn hóa số và lộ trình xây dựng
Văn hóa số và lộ trình xây dựng
11/03/2024 2.617 lượt xem
Hiện nay, quyết liệt chuyển đổi số, tạo dựng hệ sinh thái ngân hàng mở, tạo ra nền tảng phát triển bán lẻ, tăng doanh thu dịch vụ, gia tăng trải nghiệm của khách hàng là xu hướng chủ đạo của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam.
Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Nhìn từ bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay
Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Nhìn từ bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay
07/03/2024 3.648 lượt xem
Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ quốc gia có thu nhập thấp sang quốc gia có thu nhập trung bình. Song, những khó khăn nội tại và thách thức bên ngoài của nền kinh tế làm cho nguy cơ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình là có thể.
Động lực và kì vọng mới cho tương lai
Động lực và kì vọng mới cho tương lai
07/03/2024 2.474 lượt xem
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và phu nhân Lê Thị Bích Trân cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã bắt đầu chuyến công tác tham dự Hội nghị cấp cao đặc biệt kỷ niệm 50 năm quan hệ ASEAN - Australia; thăm chính thức Australia và New Zealand từ ngày 05 - 11/3/2024 theo lời mời của Thủ tướng Australia Anthony Albanese và Thủ tướng New Zealand Christopher Luxon.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?