Phát triển kinh tế số Asean: Thực trạng và giải pháp
24/08/2021 13.016 lượt xem
Kinh tế số (Digital economy) là nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số. Ở hầu hết các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là các quốc gia thuộc ASEAN, kinh tế số không chỉ là “bệ phóng” cho tăng trưởng kinh tế, mà còn là cơ sở thúc đẩy kết nối ASEAN với các nước đối tác trong và ngoài khu vực. Kinh tế số của ASEAN đang phát triển mạnh, có tiềm năng trở thành một trong năm nền kinh tế số hàng đầu thế giới. Thị trường kỹ thuật số ASEAN đã tăng gấp ba lần trong ba năm (2017 - 2020) và chiếm 7% GDP của ASEAN. Dự báo tăng trưởng kinh tế số ASEAN sẽ lên tới 300 tỷ USD năm 2025.


Kinh tế số ASEAN đang phát triển mạnh và có tiềm năng trở thành một trong năm kinh tế số hàng đầu thế giới
 
1. Thực trạng phát triển kinh tế số của ASEAN
 
Kinh tế số gồm những lĩnh vực kinh doanh cơ bản: Thương mại điện tử (e-commerce); dịch vụ du lịch trực tuyến (online travel services); dịch vụ gọi xe online (online car call services); dịch vụ viễn thông (telecommunication services); dịch vụ thanh toán trực tuyến (online payment services); y tế kỹ thuật số (health tech); giáo dục kỹ thuật số (Ed. tech)... Phát triển kinh tế số là sử dụng công nghệ số và dữ liệu để tạo ra những mô hình kinh doanh mới. Trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển nhanh, tác động rất lớn đến bức tranh kinh tế toàn cầu, hầu hết các nền kinh  tế phát triển trên thế giới đều đưa ra chiến lược phát triển công nghệ số, trong đó chú trọng việc nghiên cứu áp dụng công nghệ mới vào tăng trưởng kinh tế.
 
Năm 2019, kinh tế số của ASEAN lần đầu tiên chạm ngưỡng 100 tỷ USD, tăng gấp 3 lần trong giai đoạn 2016 - 2019. Trong đó, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan có mức tăng trưởng kinh tế số đạt trung bình 20 - 30%/năm. Hai quốc gia dẫn đầu khu vực ASEAN là Indonesia và Việt Nam có tốc độ tăng trưởng kinh tế số hơn 40%/năm1. Quy mô kinh tế số Việt Nam thậm chí có thể đạt 43 tỷ USD vào năm 2025 và sẽ tăng trưởng nóng nhất trong các lĩnh vực gồm thương mại điện tử, du lịch trực tuyến, truyền thông trực tuyến và gọi xe công nghệ. Thương mại điện tử đang là ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất và tăng trưởng nhanh nhất. Giá trị của ngành thương mại điện tử của ASEAN đạt 62 tỷ USD năm 2020, tăng 63% so với năm 2019. Dự báo, quy mô ngành thương mại điện tử ASEAN sẽ chạm mốc 172 tỷ USD năm 2025. Không chỉ thương mại điện tử, thị trường ứng dụng gọi xe công nghệ tại ASEAN cũng đang tăng trưởng mạnh mẽ. 
 
Trong ASEAN, các nước như Singapore, Thái Lan và Philippines rất chú trọng phát triển kinh tế số. Singapore cam kết dẫn đầu về quốc gia số, dành 1% GDP cho nghiên cứu phát triển công nghệ mới. Thái Lan đã ban hành “Chính sách số” với mục tiêu tối đa hóa việc ứng dụng công nghệ số trong kinh tế - xã hội, phát triển hạ tầng. Philippines đặt kế hoạch dẫn đầu ASEAN về công nghệ thông tin truyền thông và hạ tầng băng thông.
 
Các nước ASEAN, với đặc điểm dân số trẻ (hơn nửa trong số 648 triệu người dưới 30 tuổi), tầng lớp trung lưu phát triển mạnh, cùng với sự nhanh nhạy trong việc áp dụng kỹ thuật số đang sẵn sàng cho mục tiêu số hóa nền kinh tế. Năm 2018, các nước ASEAN đã đạt được thỏa thuận về thương mại điện tử, khai thác tiềm năng tăng trưởng khu vực trong lĩnh vực số và dịch vụ, chuyển sang nền kinh tế số với những bước đi quan trọng như thúc đẩy phát triển thương mại điện tử, khuyến khích phát triển công nghệ tài chính (Fintech).
 
Sáu thị trường trong khu vực ASEAN có nền kinh tế số lớn nhất, đó là: Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Trong đó, Việt Nam và Indonesia là hai thị trường bứt phá trong xu hướng phát triển nền kinh tế số so với các quốc gia còn lại trong khu vực. Đối với thương mại điện tử, Việt Nam chỉ xếp sau Indonesia về quy mô thị trường. Khoảng 150 triệu người dân ở các nước ASEAN hiện đang thực hiện giao dịch thương mại qua mạng. Mặc dù chịu tác động của các yếu tố bất lợi từ dịch bệnh Covid-19 và căng thẳng thương mại Mỹ - Trung nhưng ngành thương mại điện tử khu vực ASEAN vẫn phát triển, đạt 105 tỷ USD tổng giá trị hàng hóa năm 2020 (tương đương năm 2019). Các lĩnh vực kỹ thuật số của ASEAN tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ và dự kiến sẽ vượt mốc 300 tỷ USD năm 2025, trong đó, thương mại điện tử nổi lên như ngành phát triển nhất. Riêng về thương mại điện tử xuyên biên giới, Việt Nam đang là một trong những quốc gia tăng trưởng nhanh nhất thế giới với tốc độ 35% mỗi năm, gấp 2,5 lần so với Nhật Bản. Tiềm năng phát triển kinh tế số của các nước ASEAN được giới chuyên gia đánh giá là rất lớn khi khu vực này hiện có khoảng 400 triệu người dùng Internet và riêng trong năm 2020, có thêm 40 triệu người dùng mới. Các cơ hội kinh doanh trong những lĩnh vực mới như kỹ thuật công nghệ tài chính, kỹ thuật công nghệ y tế và kỹ thuật công nghệ giáo dục... đang rộng mở và được các nhà đầu tư quan tâm.
 
Đối với quy mô nền kinh tế số, Việt Nam xếp thứ 3 trong khu vực, năm 2020 đạt giá trị 9 tỷ USD (sau Indonesia và Thái Lan). Thương mại điện tử nổi lên như một ngành tăng trưởng lớn nhất. Kinh tế số tăng trưởng mạnh ở một số nước, như Việt Nam và Indonesia năm 2020 đã đạt mức tăng trưởng hai con số, lần lượt là 16% và 11% bất chấp những khó khăn do dịch Covid-19 gây ra. 
 
Hiện tại, ASEAN còn gặp những hạn chế nhất định trong phát triển kinh tế số: Thứ nhất, khó khăn trong cách tiếp cận chuyển đổi sang kinh tế số, đặc biệt là với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bởi phần lớn các doanh nghiệp của ASEAN đều là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên ít nhiều sẽ gặp khó khăn khi chuyển đổi, thường khó bắt nhịp với những cơ hội đó; Thứ hai, các quy định mới về thương mại điện tử tại ASEAN liên quan đến thuế, cấp phép và đăng ký tác động đến mục tiêu số hóa của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, ảnh hưởng đến triển vọng của nền kinh tế số đang phát triển mạnh ở khu vực ASEAN; Thứ ba, khó khăn trong thúc đẩy hợp tác với khu vực tư nhân. Bởi khả năng thúc đẩy tích hợp kỹ thuật số của ASEAN dựa trên hai yếu tố: Các chính sách khuyến khích tăng trưởng và quan hệ hợp tác với khu vực tư nhân để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ. Chỉ có hợp tác với khu vực tư nhân trong việc lập chính sách mới giúp gây dựng được lòng tin vững chắc, là cách tiếp cận tốt với kinh tế số; Thứ tư, liên quan đến yếu tố con người, bởi trong đại dịch Covid-19 có rất nhiều người dân cần được chăm sóc. Số người nhiễm Covid-19 không ngừng tăng cao sẽ đẩy gánh nặng lên hệ thống y tế, khiến hệ thống y tế trở nên quá tải. 
 
Tuy nhiên, khu vực ASEAN đang đứng trước những thời cơ phát triển kinh tế số nhờ những nhân tố như: (i) khu vực ASEAN đang có điều kiện tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu; (ii) khủng hoảng do Covid-19 là nhân tố thúc đẩy tiến trình số hóa và phát triển kinh tế không tiếp xúc.
 
2. Giải pháp phát triển kinh tế số của ASEAN
 
Nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế số - nền kinh tế của tương lai, giúp hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn, phát triển đồng đều hơn, mở rộng cơ hội việc làm với cách thức làm việc hoàn toàn mới, tăng năng suất, hiệu quả và tăng thu nhập. Để đạt mục tiêu trở thành một trong năm nền kinh tế số hóa trên thế giới trước năm 2025, ASEAN đang tập trung vào những giải pháp mở rộng phát triển kinh tế số, đó là:
 
Thứ nhất, mở rộng kết nối không gian mạng - Xương sống của nền kinh tế số
 
ASEAN hiện là thị trường Internet phát triển nhanh nhất trên thế giới, nền kinh tế kỹ thuật số ASEAN dự kiến ​​sẽ phát triển đáng kể, bổ sung ước tính khoảng 1 nghìn tỷ USD vào GDP khu vực trong 10 năm tới. Năm 2020, riêng Việt Nam có 68,17 triệu người sử dụng Internet (chiếm 70% dân số). Trong đó, số người sử dụng mạng trên điện thoại di động lên đến 3,6 giờ mỗi ngày, cao hơn nhiều so với các khu vực khác. Thời gian sử dụng Internet và tỷ lệ người sử dụng Internet cao sẽ được nâng lên khi ASEAN có chính sách và hành động nhằm giảm giá thành, tăng tốc độ và tăng độ phủ sóng Internet băng thông rộng đáng tin cậy đến các khu vực chưa được phục vụ. Tại các quốc gia thu nhập trung bình trong khu vực, chỉ có 2 trong số 5 người được tiếp cận Internet di động tốc độ cao (mạng 4G). Trong khi ở các quốc gia thu nhập thấp, tỷ lệ đó chỉ là 1 trong số 5 người. Vì vậy, ASEAN cần sự phối hợp chủ động giữa khu vực công và tư cũng như phương thức quản lý nhà nước chủ động để khơi thông những khoản đầu tư cần thiết về hạ tầng số và nâng cao tính cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông.
 
Các nước ASEAN đã tích cực đầu tư vào nhiều dự án phát triển thông tin, truyền thông với khoảng 100 tỷ USD từ năm 2015. Nổi bật trong đó là các sáng kiến tạo ra một ASEAN phẳng, không chuyển vùng quốc tế; thành lập một trường đại học về công nghệ thông tin và truyền thông của ASEAN nhằm đáp ứng yêu cầu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; thành lập Trung tâm chia sẻ thông tin an ninh mạng ASEAN...
 
Thứ hai, khuyến khích thanh toán số 
 
Thanh toán số là một trong những trụ cột căn bản để tạo nên nền kinh tế số. Tuy nhiên, thanh toán số vẫn chưa phát triển ở ASEAN so với những nơi khác trên thế giới. Ở hầu hết các quốc gia khu vực ASEAN, thanh toán vẫn chủ yếu bằng tiền mặt. Chỉ có 19% người dân có tài khoản tài chính truy cập qua Internet, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của các nước có thu nhập trung bình trên thế giới và châu Phi cận Sahara, lần lượt là 27% và 24%2.
 
Tại ASEAN, số lượng người dân thanh toán bằng tiền mặt đã giảm xuống 34% năm 2020 (năm 2019 là 40%). Để tạo môi trường thuận lợi về tài chính số, ASEAN tiếp tục triển khai các hệ thống định danh số hiện đại cùng với hàng loạt những quy định. Đồng thời, các khoản chi trả của chính phủ, lương hưu, hỗ trợ tài chính có điều kiện và các chương trình xã hội khác cũng được áp dụng công nghệ số.
 
Giá trị của các giao dịch không dùng tiền mặt ở châu Á dự kiến sẽ tăng từ 96,2 tỷ USD năm 2017 lên 352,8 tỷ USD năm 20223. Malaysia là quốc gia dẫn đầu  ASEAN về xu hướng sử dụng ví điện tử với tỷ lệ là 40% người tiêu dùng, tiếp đến Philippines là 36%, Thái Lan là 27% và Singapore là 26%4. Những quốc gia này đang có tỷ lệ sử dụng tiền mặt giảm dần khi người dân tăng cường chuyển sang các phương thức thanh toán không tiếp xúc.
 
Thứ ba, nâng cao kiến thức về đồng tiền kỹ thuật số và kỹ năng mềm cho người lao động 
 
Nghiên cứu, phát hành đồng tiền kỹ thuật số chung cho khu vực ASEAN sẽ mang lại nhiều lợi ích, làm giảm đáng kể thời gian và chi phí thực hiện các giao dịch và thanh toán xuyên biên giới. Việc thanh toán hàng hóa, dịch vụ diễn ra giữa người dân và doanh nghiệp của các quốc gia trong khu vực sẽ thuận lợi hơn khi sử dụng chung một loại tiền tệ để thanh toán thay vì phải quy đổi ra tiền tệ của đối tác như hiện nay.
 
Hệ thống giáo dục cần linh hoạt hơn trong việc phát triển các kỹ năng cần thiết để vận hành trong nền kinh tế kỹ thuật số. Những kỹ năng bao gồm: Kiến ​​thức máy tính cơ bản, kỹ năng nâng cao như mã hóa và phân tích dữ liệu. Kỹ năng mềm như hợp tác và giao tiếp cũng rất cần thiết. Kỹ năng của lực lượng lao động trong khu vực ASEAN được bắt nhịp cùng với chuyển đổi công nghệ số đang diễn ra ở tất cả các ngành kinh tế và giáo dục có vai trò chính trong việc phát triển kiến thức kỹ thuật và kỹ năng mềm của nền kinh tế số đầy tính cạnh tranh. Khi công nghệ đang thay đổi với tốc độ nhanh, khả năng thích ứng và học trọn đời càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, cần có sự phối hợp hiệu quả hơn giữa khu vực công và khu vực tư. Để thúc đẩy phát triển kinh tế số, ASEAN cần có cam kết hơn nữa về phát triển nguồn nhân lực số và tạo điều kiện di chuyển lao động có kỹ năng, trình độ chuyên môn cao trong khu vực.
 
Thứ tư, phát triển ngành dịch vụ hậu cần Logistics 
 
Kinh tế số của ASEAN không thể chỉ phụ thuộc vào những nền tảng ảo. Hậu cần vẫn là một rào cản trong thương mại điện tử và việc đưa sản phẩm đến được điểm cần đến với chi phí hiệu quả và đáng tin cậy là một trong những thách thức lớn nhất. Ngành Logistics vận hành tốt là điều kiện thiết yếu để thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế số, đặc biệt là thương mại điện tử. Các lô hàng thương mại điện tử phải đối mặt với các thủ tục hải quan - là lĩnh vực hoạt động yếu nhất trong lĩnh vực hậu cần của khu vực ASEAN. Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Logistics được thể hiện thông qua giảm chi phí Logistics và cải thiện chất lượng dịch vụ. Hợp lý hóa thủ tục hải quan có thể tạo điều kiện để vận chuyển nhanh hơn, rẻ hơn, dễ đoán biết hơn.
 
Hậu cần Logistics phát triển góp phần hoàn thiện và tiêu chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh quốc tế. Hậu cần Logistics cung cấp các dịch vụ đa dạng, trọn gói có tác dụng giảm rất nhiều các loại chi phí giấy tờ, chứng từ trong buôn bán quốc tế. Cùng với việc phát triển hậu cần điện tử (electronic logistics) khiến cho chi phí giấy tờ, chứng từ trong lưu thông hàng hóa càng được giảm tới mức tối đa, chất lượng dịch vụ hậu cần ngày càng được nâng cao sẽ thu hẹp hơn nữa mọi cản trở về không gian và thời gian trong dòng lưu chuyển nguyên vật liệu và hàng hóa. Các quốc gia sẽ xích lại gần nhau hơn trong hoạt động sản xuất và lưu thông. Các dịch vụ hậu cần hiệu quả sẽ làm giảm mức chi phí đầu vào của các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ trong khối ASEAN. Nhờ đó, hoạt động thương mại, đầu tư và liên kết ASEAN tăng lên, bảo đảm chống lại sự dao động giá cả trong khu vực, tạo ra thị trường khu vực ngày càng phát triển. Giảm chi phí từng khâu trong dịch vụ hậu cần là phương pháp cạnh tranh tối ưu nhất của ASEAN.
 
Thứ năm, mở rộng liên kết hội nhập khu vực
 
Covid-19 đã tác động đến nền kinh tế toàn cầu và tạo cơ hội cho các doanh nghiệp ASEAN nhìn nhận, cân nhắc những hướng đi mới trong tương lai, khẳng định sự cần thiết gắn kết giữa các quốc gia trong khu vực để nâng cao phát triển con người cũng như kinh tế. ASEAN đẩy mạnh hơn nữa hợp tác về công nghệ thông tin với Hàn Quốc nhằm thúc đẩy nền kinh tế số trong khu vực bởi  hợp tác với Hàn Quốc sẽ giúp các doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và vừa của ASEAN nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế.
 
Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt - Hàn được thành lập vào tháng 01/2020 nhằm đạo tạo thạc sĩ, tiến sĩ cho những ngành thuộc các lĩnh vực mới theo xu hướng chuyển đổi số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, Robotics, IoT, an toàn thông tin, kinh tế số, thương mại điện tử, Logistics…). Để mở rộng và kết nối hội nhập khu vực,  ASEAN đưa ra các quy định và tạo thuận lợi cho giao dịch giữa các quốc gia trong khu vực nhằm tạo ra một thị trường số tích hợp đem lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và người tiêu dùng. ASEAN hỗ trợ và thúc đẩy sự hợp tác với khu vực tư nhân trong việc ban hành các chính sách. Bởi chỉ có hợp tác với khu vực tư nhân mới giúp gây dựng được lòng tin vững chắc, là cách tiếp cận tốt hơn với kinh tế số. Tham gia hợp tác khu vực sẽ đảm bảo ASEAN có vị thế tốt hơn để khai thác toàn bộ tiềm năng của nền kinh tế kỹ thuật số.
 
Thứ sáu, ban hành các quy định và tiêu chuẩn hóa nhằm xử lý rủi ro liên quan đến chuyển đổi số
 
Các nước ASEAN có nhiều hoạt động thúc đẩy chuyển đổi số, đẩy mạnh chuyển đổi số để phục hồi trong ASEAN là một trong năm chiến lược5 phục hồi chính của Khung phục hồi tổng thể ASEAN và kế hoạch triển khai sau dịch bệnh Covid-19. Để thúc đẩy xu hướng chuyển đổi số, ASEAN đã có nhiều nỗ lực trong việc triển khai các chính sách khu vực, bao gồm khuôn khổ thanh toán xuyên biên giới, kế hoạch thúc đẩy sản xuất thông minh và hỗ trợ phát triển hệ sinh thái 5G. Triển khai sáng kiến ASEAN số nhằm góp phần vào quá trình chuyển đổi. Cùng với tốc độ chuyển đổi như vậy, đầu tư cơ sở hạ tầng số và đầu tư kỹ năng số sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh.
 
ASEAN tập trung ưu tiên các quy định và tiêu chuẩn hiệu quả cho giao dịch điện tử, lưu chuyển dữ liệu qua biên giới, an ninh mạng, bảo mật dữ liệu và bảo vệ người tiêu dùng. Các biện pháp thực chất trong các lĩnh vực trên là thiết yếu để xây dựng lòng tin với những nền tảng trực tuyến, và hình thành nên các nền kinh tế số an toàn và bền vững.
 
Tóm lại, trong bối cảnh tác động của đại dịch Covid-19 đang tái định hình môi trường kinh tế số năng động của thế giới, khu vực ASEAN với gần 400 triệu người dùng Internet sẽ là môi trường giàu tiềm năng mang lại cơ hội đặc biệt cho phát triển kinh tế số. Đại dịch Covid-19 đã mang đến “một thế giới hoàn toàn mới”. Theo đó, việc nắm bắt các cơ hội phát triển từ kinh tế số có ý nghĩa quan trọng, thúc đẩy phục hồi tăng trưởng, tăng cường kết nối, nâng cao vị thế của ASEAN. Xét về dư địa, kinh tế số có tiềm năng phát triển vô cùng to lớn bởi hiện nay kinh tế số mới chỉ chiếm tỷ trọng 7% GDP trong khu vực ASEAN, so với mức 16% ở Trung Quốc, 27% ở châu Âu và 35% ở Mỹ.
 
Với quy mô khu vực, nền kinh tế số ASEAN sẽ rút ngắn được khoảng cách với những thị trường phát triển hơn về tỷ lệ đóng góp vào GDP. Phát triển kinh tế số sẽ giúp cộng đồng ASEAN gắn kết chặt chẽ hơn, là cơ hội để các quốc gia ASEAN thay đổi vị thế, tăng năng suất lao động và đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng GDP. Dự kiến, năm 2025, ASEAN trở thành một trong năm nền kinh tế số lớn nhất thế giới. Hiện tất cả quốc gia thành viên khu vực ASEAN đã ký kết nhiều thỏa thuận nhằm thúc đẩy khu vực hướng tới cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Dự báo, nền kinh tế số khu vực ASEAN sẽ tăng gấp 3 lần, chạm mức 300 tỷ USD, trong đó kinh tế số Việt Nam có triển vọng bứt phá lên 43 tỷ USD (năm 2025).
 
1 Báo cáo về tình hình phát triển kinh tế số tại khu vực Đông Nam Á năm 2019 (e-economy Southeast Asia 2019); https://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe/kinh-te-so-asean-dat-100-ty-usd-viet-nam-dan-dau-khu-vuc-573758.html.
 
2 ASEAN’s Digital Economy Not Growing Fast Enough; ASEAN’s Digital Economy Not Growing Fast Enough. The ASEAN Post.
 
3 ASEAN’s Digital Economy Not Growing Fast Enough; ASEAN’s Digital Economy Not Growing Fast Enough. The ASEAN Post.
 
4 Thị trường ví điện tử đang lên tại Đông Nam Á, https://ictvietnam.vn/thi-truong-vi-dien-tu-dang-len-tai-dong-nam-a-20200904170526531.htm.
 
5 Năm chiến lược phục hồi chính của ASEAN bao gồm: Tăng cường hệ thống y tế; bảo đảm an ninh con người; thúc đẩy thị trường và liên kết nội khối; đẩy mạnh chuyển đổi số và xây dựng tương lai bền vững, tự cường. 


Tài liệu tham khảo:
 
1. Trọng Đạt (2020), Kinh tế số ASEAN đạt 100 tỷ USD, Việt Nam dẫn đầu khu vực, https://vietnamnet.vn/vn/cong-nghe/kinh-te-so-asean-dat-100-ty-usd-viet-nam-dan-dau-khu-vuc-573758.html.
 
2. Bắc Hà (2019), Tích hợp kinh tế số - Cơ hội nằm trong tay các nước ASEAN, http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/tich-hop-kinh-te-so-co-hoi-nam-trong-tay-cac-nuoc-asean-68420.htm.
 
3. Cameron. A, (2019). Tương lai nền kinh tế số ViệtNam - Hướng tới năm 2030 và 2045. Cơ quan Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Khối thịnh vượng chung Úc (CSIRO), Brisbane.
 
4. Thế Vũ (2020), Triển vọng một đồng tiền kỹ thuật số cho ASEAN (bnews.vn).  
 
5. Growing ASEAN’s Digital Economy, (2020) IGNITE-Digital-Economy-fact-sheet-Aug 2020.pdf (usmission.gov).
 
6. Jeff Paine (2020), The significance of the ASEAN digital economy in a post-pandemic world, The significance of the ASEAN digital economy in a post-pandemic world (vir.com.vn).
 
7. ASEAN’s Digital Economy Not Growing Fast Enough, the ASEAN Post, ASEAN’s Digital Economy Not Growing Fast Enough. The ASEAN Post.


PGS., TS. Phạm Thị Thanh Bình 

Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
16/04/2024 553 lượt xem
Chính sách tín dụng nông thôn (tín dụng nông thôn) ở Brazil là các chương trình cho vay nhằm hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, năng suất và đầu tư; nâng cao thu nhập của các trang trại và doanh nghiệp; nâng cao mức sống của người dân nông thôn.
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
04/04/2024 1.962 lượt xem
Bài viết phân tích, đánh giá một số kinh nghiệm quốc tế về cơ cấu thu NSNN bền vững thông qua bốn loại thuế, gồm: Thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT, thuế TTĐB. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị để hoàn thiện cơ cấu thu NSNN bền vững, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam.
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
21/03/2024 3.858 lượt xem
Hệ thống hưu trí là một bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội với hai hệ thống hưu trí bắt buộc và hệ thống hưu trí tự nguyện. Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp ở các nước trên thế giới rất quan trọng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
19/03/2024 7.793 lượt xem
Năm 2023, kinh tế thế giới phục hồi yếu và không đồng đều giữa các nền kinh tế chủ chốt. Hoạt động sản xuất, từ sản lượng công nghiệp đến hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế đều giảm.
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
07/03/2024 5.440 lượt xem
Những thay đổi về nhân khẩu học toàn cầu, đặc biệt là xu hướng già hóa dân số đang đặt ra những thách thức và rủi ro lớn cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
03/03/2024 7.545 lượt xem
Sau gần hai năm thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát và đưa lạm phát của nền kinh tế Hoa Kỳ về gần lạm phát mục tiêu là 2%, trong năm 2024, dự kiến Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ có những thay đổi lớn trong điều hành chính sách tiền tệ.
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
15/02/2024 6.233 lượt xem
Kiểm toán nội bộ có vai trò quan trọng trong việc tăng cường và bảo vệ giá trị của tổ chức thông qua chức năng cung cấp sự đảm bảo, tư vấn khách quan, chuyên sâu và theo định hướng rủi ro.
Ngân hàng Mizuho Việt Nam góp phần thúc đẩy hợp tác toàn diện kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
Ngân hàng Mizuho Việt Nam góp phần thúc đẩy hợp tác toàn diện kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
13/02/2024 6.142 lượt xem
Nhìn lại năm 2023, trên khắp Việt Nam và Nhật Bản đã diễn ra nhiều sự kiện kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Tháng 12/2023, Mizuho đã hỗ trợ Diễn đàn kinh tế Nhật Bản - Việt Nam tại Tokyo cùng với Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và các định chế tài chính khác.
Triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2024
Triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2024
26/01/2024 7.455 lượt xem
Sau những cú sốc mạnh trong năm 2022, hoạt động kinh tế toàn cầu có dấu hiệu ổn định vào đầu năm 2023.
Kinh nghiệm ứng dụng trí tuệ nhân tạo và tự động hóa quy trình bằng robot trong lĩnh vực ngân hàng trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam
Kinh nghiệm ứng dụng trí tuệ nhân tạo và tự động hóa quy trình bằng robot trong lĩnh vực ngân hàng trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam
15/01/2024 7.879 lượt xem
Chuyển đổi số và sự bùng nổ công nghệ có ảnh hưởng lớn đến hành vi của khách hàng và hoạt động kinh doanh. Xu hướng thay đổi này dẫn đến quá trình số hóa trong các lĩnh vực như sản xuất, chuỗi cung ứng, tài chính và các dịch vụ phụ trợ khác.
Thẩm quyền để xử lí ngân hàng đang đổ vỡ một cách nhanh chóng và kịp thời - Nhìn từ kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
Thẩm quyền để xử lí ngân hàng đang đổ vỡ một cách nhanh chóng và kịp thời - Nhìn từ kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
05/01/2024 8.676 lượt xem
Trong năm vừa qua, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều vụ sụp đổ của những ông lớn trong lĩnh vực ngân hàng, điều này dấy lên hồi chuông cảnh báo về tính chất dễ đổ vỡ của ngân hàng. Việc một ngân hàng đổ vỡ thể hiện kỉ luật thị trường đối với những ngân hàng có hoạt động kinh doanh thiếu an toàn, lành mạnh nhưng lại tạo ra nhiều hệ lụy cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến niềm tin của công chúng và người gửi tiền.
Phân tích lợi ích và rủi ro của tiền kĩ thuật số Ngân hàng Trung ương
Phân tích lợi ích và rủi ro của tiền kĩ thuật số Ngân hàng Trung ương
21/12/2023 10.060 lượt xem
Sự chuyển dịch nhanh chóng của hệ thống tiền tệ số toàn cầu đã khiến chính phủ các nước có phần lúng túng trong việc thích nghi với sự thay đổi mạnh mẽ trong hành vi chi tiêu và đầu tư của người dân.
Hợp tác của Trung Quốc với các nước châu Phi trong lĩnh vực ngân hàng và một số kinh nghiệm cho Việt Nam
Hợp tác của Trung Quốc với các nước châu Phi trong lĩnh vực ngân hàng và một số kinh nghiệm cho Việt Nam
20/12/2023 9.293 lượt xem
Trung Quốc là đối tác kinh tế, thương mại và đầu tư lớn nhất của châu Phi trong thời gian qua và sẽ tiếp tục trong thời gian tới. Bài viết này tóm lược sự phát triển quan hệ thương mại và đầu tư của Trung Quốc với các nước châu Phi trong thời gian hơn một thập kỉ vừa qua và việc Trung Quốc sử dụng lĩnh vực ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển đó.
Thực tiễn sử dụng tiền mã hóa trong tài trợ cuộc xung đột Nga - Ukraine và hàm ý cho Việt Nam
Thực tiễn sử dụng tiền mã hóa trong tài trợ cuộc xung đột Nga - Ukraine và hàm ý cho Việt Nam
16/11/2023 10.397 lượt xem
Bài viết khái quát quá trình triển khai huy động dòng vốn toàn cầu thông qua tiền mã hóa của Chính phủ Ukraine và Liên bang Nga; từ đó, đánh giá hiệu quả thực tiễn của việc sử dụng tiền mã hóa trong thanh toán xuyên biên giới, nguy cơ sử dụng tiền mã hóa trong các hoạt động rửa tiền, khủng bố và đưa ra hàm ý cho Việt Nam.
Quy định về hoạt động huy động vốn cộng đồng theo hình thức cổ phần tại Malaysia - Một số gợi mở cho Việt Nam
Quy định về hoạt động huy động vốn cộng đồng theo hình thức cổ phần tại Malaysia - Một số gợi mở cho Việt Nam
06/11/2023 10.244 lượt xem
Hoạt động huy động vốn cộng đồng đã trở nên phổ biến sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, phương thức này đã phát triển nhanh chóng ở nhiều nước trên thế giới. Trong đó, hoạt động huy động vốn theo hình thức cổ phần (Equity - based Crowdfunding - ECF) là hình thức gọi vốn được các doanh nghiệp trong giai đoạn khởi đầu, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo rất ưa chuộng. Với ECF, các doanh nghiệp có thể huy động vốn từ cộng đồng thông qua một nền tảng trên Internet.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.800

83.800

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.800

83.800

Vàng SJC 5c

81.800

83.820

Vàng nhẫn 9999

74.800

76.700

Vàng nữ trang 9999

74.700

76.000


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,100 25,440 26,252 27,714 30,724 32,055 157.77 167.11
BIDV 25,130 25,440 26,393 27,618 30,763 32,067 158.12 166.59
VietinBank 25,090 25,443 26,504 27,799 31,154 32,164 160.64 168.59
Agribank 25,100 25,440 26,325 27,607 30,757 31,897 159.58 167.50
Eximbank 25,040 25,440 26,425 27,239 30,914 31,866 160.82 165.77
ACB 25,110 25,442 26,596 27,279 31,230 31,905 161.07 166.37
Sacombank 25,170 25,420 26,701 27,261 31,332 31,835 162.03 167.05
Techcombank 25,192 25,442 26,362 27,707 30,760 32,094 157.36 169.78
LPBank 24,960 25,440 26,088 27,611 30,970 31,913 158.36 169.76
DongA Bank 25,170 25,440 26,570 27,260 31,080 31,940 159.20 166.40
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?