TS. Hà Thị Sáu
Bền vững trong phát triển là mục tiêu của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp và thậm chí là mỗi cá nhân, gia đình,… Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) Việt Nam là một loại hình tổ chức tín dụng (TCTD), hình thành trong nền kinh tế thị trường, tồn tại song song với các ngân hàng thương mại (NHTM) và TCTD phi ngân hàng khác cũng không nằm ngoài mục tiêu đó.
Vậy phát triển bền vững của NHCSXH là gì?
NHCSXH là một định chế tài chính của Nhà nước, hoạt động với mục đích phi lợi nhuận, tức là không vì mục tiêu kinh doanh, song phải bảo toàn được vốn và phải đảm bảo được các mục tiêu xã hội mà Quốc hội hay Chính phủ đề ra. Mục tiêu xã hội đó, thường là: giảm nghèo, tạo việc làm, bảo vệ môi trường, khắc phục thiên tai, cải thiện đời sống cho các vùng khó khăn và đồng bào thiểu số, di dân, hồi hương, tái hòa nhập cộng đồng,... Tùy theo điều kiện từng nước mà nhấn mạnh nhóm mục tiêu, song thường là có tính chất tổng hợp các yêu cầu an sinh xã hội. Cụ thể là, NHCSXH phải tham gia tích cực, đóng vai trò tích cực trong việc đạt được mục tiêu phát triển bền vững của một quốc gia, một vùng lãnh thổ.
Từ những phân tích ở trên, tác giả cho rằng, một NHCSXH bền vững là ngân hàng đạt được các mục tiêu hoạt động, phát triển liên tục, bảo toàn và gia tăng vốn, đáp ứng nhu cầu vốn hợp lý và có hiệu quả của khách hàng, góp phần giải quyết các chính sách xã hội của quốc gia.
Vậy có những tiêu chí nào đánh giá sự phát triển bền vững của NHCSXH?
Về mặt định tính, một NHCSXH phát triển bền vững không chỉ tính đến các yêu cầu phát triển riêng của bản thân ngân hàng. Nếu như khách hàng vay vốn không nâng cao được năng lực, nâng cao hay cải thiện điều kiện sống, sinh hoạt, làm ăn,... sau một hay một số chu kỳ vay vốn thì chưa phải là sự phát triển bền vững của NHCSXH. Hơn thế nữa, các mục tiêu xã hội của nền kinh tế, như: giảm nghèo, tạo việc làm mới và nâng cao thu nhập, bảo vệ môi trường,... không đạt được thì hoạt động của NHCSXH hầu như không có ý nghĩa. Như vậy, sự phát triển bền vững của một NHCSXH đó là đáp ứng được các yêu cầu tồn tại và phát triển của bản thân ngân hàng, của khách hàng và yêu cầu chính sách xã hội của quốc gia.
Về mặt định lượng, có các tiêu chí cơ bản sau đây:
1- Đối với ngân hàng: sự tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước về: quy mô nguồn vốn hoạt động, dư nợ cho vay, số lượng khách hàng; tỷ lệ nợ xấu trong giới hạn cho phép.
2- Đối với người vay vốn: cải thiện được điều kiện làm ăn, điều kiện sống, thu nhập, việc làm, dân trí, tay nghề,... hoàn trả vốn vay và các yêu cầu tài chính khác theo cam kết.
3- Đối với nền kinh tế: tỷ lệ giảm nghèo hàng năm, tỷ lệ việc làm mới gia tăng hay tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm; điều kiện của người dân ở vùng thiên tai, vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa,... được cải thiện. Vấn đề bảo vệ môi trường có chuyển biến.
Một số tiêu chí đối với nền kinh tế cần phải đánh giá trong trạng thái động, cụ thể như: tiêu chí hộ nghèo được nâng lên so với mặt bằng chung về phát triển kinh tế, thu nhập quốc dân bình quân đầu người; việc làm mới tạo ra gắn liền với tốc độ tăng dân số,....
Một số liên hệ thực tiễn với NHCSXH Việt Nam
Một là, nhóm chỉ tiêu thuộc về ngân hàng
- Trước khi thành lập NHCSXH Việt Nam, tức là trước tháng 10/2002, có 3 mảng tín dụng chính sách thuộc về 3 tổ chức khác nhau giải ngân cho vay: i) NHNo&PTNT Việt Nam nhận ủy thác cho vay hộ nghèo của Ngân hàng Phục vụ người nghèo, thực hiện từ năm 1995: quy mô dư nợ của lĩnh vực xã hội này là lớn nhất. ii) Ngân hàng Công thương Việt Nam cho học sinh sinh viên vay vốn học tập: kết quả khiêm tốn; iii) Kho bạc Nhà nước cho vay giải quyết việc làm: kết quả rất khiêm tốn, tỷ lệ nợ quá hạn khi bàn giao cho NHCSXH cao.
NHCSXH bền vững là ngân hàng đạt được các mục tiêu hoạt động, phát triển liên tục, bảo toàn và gia tăng vốn,
đáp ứng nhu cầu vốn hợp lý và có hiệu quả của khách hàng, góp phần giải quyết các chính sách xã hội của quốc gia
Do những hạn chế của 3 kênh nói trên, đồng thời yêu cầu tái cơ cấu TCTD cũng như đáp ứng yêu cầu thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới, NHCSXH được thành lập, tập trung 3 chương trình tín dụng nói trên, đồng thời liên tục phát triển các chương trình, dự án mới. Từ 3 chương trình ban đầu, đến nay, đã lên tới 24 chương trình, dự án; dư nợ cho vay tăng trưởng bình quân khoảng trên 10%/năm. Tổng dư nợ các chương trình tín dụng đến 30/6/2017 đạt 166.426 tỷ đồng, tăng 5,8% so với cuối năm 2016; trong đó, dư nợ tín dụng thực hiện theo chỉ tiêu kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao đạt 148.960 tỷ đồng, hoàn thành 71% kế hoạch, với gần 6,8 triệu người nghèo và các đối tượng chính sách còn dư nợ, dư nợ bình quân 25 triệu đồng/hộ. Như vậy, xét về góc độ này rõ ràng NHCSXH đảm bảo được yêu cầu về phát triển liên tục và phát triển ổn định của sự phát triển bền vững.
- Tỷ lệ nợ xấu thấp. Chất lượng tín dụng chính sách không ngừng được củng cố, nâng cao. Tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khoanh hiện nay chỉ chiếm 0,82% tổng dư nợ, trong đó nợ quá hạn chiếm tỷ lệ 0,43%. Các khoản nợ xấu này hầu hết rơi vào nguyên nhân bất khả kháng, nguyên nhân khách quan, người vay đã mất, người vay đi khỏi nơi cư trú không còn thông tin, người đi xuất khẩu lao động phải về nước trước thời hạn, tai nạn, ốm đau kéo dài, thiên tai,... Nguyên nhân chủ quan hầu như không có, tất nhiên là không thể tuyệt đối vấn đề này.
- Nguồn vốn của NHCSXH cũng đang khá đa dạng và tăng trưởng ổn định. Đến ngày 30/6/2017, tổng nguồn vốn đạt trên 173.000 tỷ đồng, tăng 13.816 tỷ đồng so với cuối năm 2016. Trong đó, nguồn vốn nhận ủy thác từ địa phương đạt 8.112 tỷ đồng, chiếm 4,6% tổng nguồn vốn; huy động vốn của các tổ chức kinh tế, cá nhân và dân cư là 8.335 tỷ đồng, tiền gửi tiết kiệm thông qua tổ tiết kiệm và vay vốn 6.101 tỷ đồng.
Hai là, nhóm chỉ tiêu thuộc về người vay
Thực tế về số liệu kế toán của NHCSXH nói trên cũng chứng tỏ trình độ dân trí, nhận thức của người dân về sử dụng vốn tín dụng chính sách, về dịch vụ tài chính chính thức của nhà nước đã được nâng cao, nếu có nguồn thu nhập họ sẵn sàng trả nợ trước hạn. Nếu sử dụng vốn không hiệu quả, không có khả năng đầu tư để thu hồi vốn và có lãi trả nợ thì họ không vay, mặc dù mức cho vay đã được nâng lên. Người vay sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, có nguồn thu nhập, tạo được việc làm tại chỗ, trả nợ đúng hạn cho NHCSXH để quay vòng tiếp tục cho vay.
Ba là, nhóm chỉ tiêu về nền kinh tế
Báo cáo chính thức quốc gia, báo cáo của Hội đồng Nhân dân các tỉnh, thành phố,... đều cho thấy tỷ lệ hộ nghèo giảm, số người được tạo việc làm mới có chuyển biến, hay ngăn chặn được số người thất nghiệp trong bối cảnh kinh tế khó khăn. Một số báo cáo chính thức khác cũng ghi nhận số lượng sinh viên, học sinh được vay vốn, những chuyển biến trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn,... Đánh giá của một số tổ chức quốc tế cũng ghi nhận những thành công trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, giải quyết vấn đề an sinh xã hội của Việt Nam.
Kết quả đó có những đóng góp không thể phủ nhận của NHCSXH Việt Nam mà nhiều bài viết và nhiều tài liệu đã đề cập. Tuy nhiên, trong xu hướng hội nhập cũng như xu hướng vận động của nền kinh tế, còn nhiều vấn đề cần được giải quyết một cách bền vững, mà trọng tâm là giải pháp tín dụng chính sách xã hội, đặ trọng trách lớn cho NHCSXH Việt Nam trong ngắn hạn cũng như trung, dài hạn.
Một số kiến nghị đề xuất
Theo tác giả bài viết, vấn đề đầu tiên là phải giải quyết một cách cơ bản, ổn định nguồn vốn hoạt động của NHCSXH Việt Nam, bởi vì, Ngân hàng này không thể cạnh tranh bình đẳng huy động vốn trên thị trường như các NHTM khác. Chính phủ nên giao cho Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính cần khẩn trương hoạch định chính sách tạo lập nguồn vốn ổn định, bền vững, cơ chế xử lý nợ rủi ro khách quan, cơ chế tài chính Ngành theo hướng nâng cao tính tự chủ, giảm dần tính thụ động, chắp vá trong tổ chức chỉ đạo, điều hành. Nguồn vốn theo kế hoạch hàng năm phải được ghi vào danh mục chi ngân sách nhà nước được Quốc hội phê chuẩn. Có quy định cụ thể về tỷ lệ đóng góp thống nhất trong toàn quốc đối với nguồn vốn tăng thu, tiết kiệm chi thuộc nguồn vốn ngân sách địa phương để lập quỹ cho vay ưu đãi thực hiện các chương trình tín dụng ưu đãi của địa phương. Đồng thời, nghiên cứu, ban hành cụ thể hơn nữa chính sách đa dạng hoá các nguồn vốn để huy động được sự đóng góp của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp tài chính, ngân hàng, nguồn đóng góp tự nguyện của cộng đồng dân cư, của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; có cơ chế cho phép NHCSXH được trực tiếp nhận nguồn vốn ODA. Về góc độ nguồn vốn, bài viết xin đề xuất các giải pháp cụ thể sau:
Một là, tiếp nhận tiền gửi 2% của các TCTD trong nước
Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ quy định: “Các TCTD nhà nước có trách nhiệm duy trì số dư tiền gửi tại NHCSXH bằng 2% số dư nguồn vốn huy động bằng đồng Việt Nam tại thời điểm 31/12 năm trước. Việc thay đổi tỷ lệ số dư tiền gửi nói trên do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Tiền gửi của các TCTD nhà nước tại NHCSXH được trả lãi bằng lãi suất tính trên cơ sở bình quân lãi suất huy động các nguồn vốn hàng năm của TCTD + phí huy động hợp lý do hai bên thỏa thuận”.
Tác giả bài viết đề xuất, thay cho tỷ lệ 2% nói trên với cơ chế lãi suất như trên, bằng tỷ lệ 2% tổng số dư tiền gửi nội tệ, áp dụng cho tất cả các NHTM Việt Nam (không tính ngân hàng liên doanh và ngân hàng nước ngoài) và tỷ lệ 2% đó được tính vào tỷ lệ tiền gửi bắt buộc của NHTM tại NHNN. Về lãi suất, tính theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng gửi tại NHTM. Do đó, nếu tính 2% thì NHCSXH ước tính sẽ có khoảng 50.000 - 65.000 tỷ đồng, có tính chất tăng trưởng ổn định theo tốc độ tăng tiền gửi nội tệ tại các NHTM Việt Nam.
Hai là, nguồn vốn vay NHNN
NHCSXH thực hiện vay từ NHNN trên cơ sở kế hoạch nguồn vốn hàng năm của NHCSXH đã được Bộ Tài chính thông qua. Vì NHNN là ngân hàng của các ngân hàng, do vậy, NHCSXH khi cần thiết cũng có thể vay từ NHNN.
Đây là nguồn vốn quan trọng của NHCSXH, cần được tổng kết, đánh giá kênh nguồn vốn này trong thời gian qua để có thể đảm bảo ổn định trong thời gian tới. Hay, tính toán trên cơ sở kế hoạch nguồn vốn hàng năm của NHCSXH trừ đi các nguồn vốn khác, thì còn lại được cân đối từ nguồn này.
Ba là, nguồn vốn vay các tổ chức tài chính tín dụng trong nước
Cũng như các ngân hàng khác, việc NHCSXH vay các tổ chức tài chính, tín dụng khác trong nước được quy định trong điều lệ, việc vay vốn thực hiện khi có nhu cầu, vay từng lần và phải đưa vào kế hoạch huy động vốn hàng năm của NHCSXH đã được Bộ Tài chính phê duyệt.
Việc vay vốn trên cơ sở thỏa thuận, lãi suất trả cho khoản vốn vay này trên nguyên tắc thỏa thuận nhưng theo quy định của Bộ Tài chính: lãi suất vay không vượt quá lãi suất tối đa cùng kỳ hạn của các NHTM Nhà nước trên địa bàn.
Thực tế cho thấy, kênh vay vốn này cũng có những khó khăn nhất định và không thể trông chờ có tính chất ổn định lâu dài được.
Bốn là, nguồn vốn vay từ Bảo hiểm Xã hội: Lãi suất tiền vay do Bộ Tài chính quy định từng lần.
Hiện nay, vay từ kênh Bảo hiểm xã hội cần được đánh giá và cân đối chủ động hàng năm. Đồng thời, nên tính toán vay mới từ kênh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Đây là nguồn vốn khá quan trọng.
Năm là, ngồn vốn vay các tổ chức tài chính, tín dụng nước ngoài
NHCSXH được thực hiện vay vốn từ các tổ chức tài chính, tín dụng nước ngoài. Việc vay vốn được Chính phủ bảo lãnh. Lãi suất vay vốn trong trường hợp này phải được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản.
Kênh vay vốn này không phải dễ dàng vì tùy thuộc vào kết quả đàm phán và tạo lòng tin của các nhà tài trợ quốc tế vào NHCSXH, đồng thời, NHCSXH phải chủ động xây dựng đề án, dự án có tính thuyết phục theo thông lệ quốc tế và theo yêu cầu quốc tế.
Sáu là, nguồn vốn huy động của dân cư
Nguồn vốn này NHCSXH tự tổ chức huy động trên thị trường, theo nguyên tắc thương mại, có sự cạnh tranh của các TCTD khác trên địa bàn.
Như phần trên đã đề cập, giải pháp này không có tính khả thi, không hiệu quả.
Bảy là, nguồn vốn huy động của người nghèo vay vốn
Đối với đối tượng là người nghèo vay vốn, NHCSXH không cho vay từng cá nhân, hộ nghèo riêng lẻ mà thực hiện cho vay trực tiếp đến hộ thông qua các tổ tiết kiệm và vay vốn, có nghĩa là hộ nghèo muốn vay vốn phải tham gia vào tổ tiết kiệm và vay vốn tại địa phương. Các tổ do cộng đồng dân cư tự nguyện thành lập theo sự hướng dẫn, chỉ đạo của các tổ chức chính trị - xã hội tại địa phương, được UBND xã (phường) cho phép thành lập và hoạt động.
Nguồn vốn này tỷ trọng nhỏ, nên không phải kênh huy động vốn chủ đạo.
Tám là, nguồn vốn nhận ủy thác:
Ngoài việc thực hiện huy động vốn, NHCSXH còn tiếp nhận các nguồn vốn từ Chính phủ, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước dưới hình thức vốn nhận ủy thác. Việc nhận vốn ủy thác thường thực hiện thông qua ký kết các văn bản thỏa thuận trong đó nêu rõ: số tiền ủy thác, địa bàn cho vay, đối tượng cho vay, lãi suất và điều kiện cho vay, mức phí ủy thác, thời gian ủy thác, xử lý rủi ro.
Về bản chất, đây là nguồn vốn mà NHCSXH nhận ủy thác cho vay, hưởng phí dịch vụ. Do vậy, nó mang tính tự nguyện giữa hai bên, tùy thuộc vào chính sách và điều kiện cụ thể của mỗi địa phương, mỗi tổ chức, nên không có tính chất ổn định, cần được đánh giá hoạt động nhận ủy thác thời gian qua của NHCSXH để có đề xuất mới, hiệu quả cho thời gian tới.
Trước mắt, trong thời điểm hiện nay, NHCSXH cần chủ động tiếp tục tổ chức tốt việc huy động vốn; theo dõi, bám sát thị trường; phối hợp chặt chẽ với các Vụ, Cục chức năng của NHNN và Bộ Tài chính để đẩy mạnh phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh theo hạn mức đã được Thủ tướng phê duyệt; Tiếp tục tham mưu cho các cấp, các ngành, địa phương tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Quyết định số 401/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tranh thủ nguồn lực từ ngân sách địa phương để bổ sung nguồn vốn cho vay trên
địa bàn.
NHCSXH Việt Nam cũng tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành liên quan đề nghị Quốc hội, Chính phủ phê chuẩn, giao kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020; xem xét nâng mức cho vay chương trình tín dụng đối với học sinh, sinh viên; nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; đồng thời rà soát, đánh giá chính sách tín dụng để kiến nghị Chính phủ hoạch định cơ chế phù hợp cho công tác giảm nghèo đối với từng vùng.
Hiện nay, có rất nhiều chương trình, dự án, do các Bộ, ngành khác nhau phụ trách, triển khai từ nguồn vốn ngân sách đầu tư cho người nghèo, đối tượng chính sách, đồng bào thiểu số, vùng thiên tai,… như: chương trình dạy nghề nông thôn, Ủy ban Dân tộc, Hội nông dân,… cần có sự đánh giá tổng thể, tránh chồng chéo, chuyển dần và chuyển từng phần qua kênh tín dụng chính sách.
Xây dựng các chương trình, dự án mới, mở ra các đối tượng mới hưởng thụ tín dụng chính sách, nhất là các chương trình về ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, hộ gia đình chính sách ở đô thị, gia đình công nhân thiếu nhà ở trong các khu công nghiệp, khu chế xuất; nhà ở cho giáo viên miền núi,…; các doanh nghiệp thực hiện các dự án xã hội, dự án chính sách, dự án ở vùng thiên tai.
Hệ thống NHCSXH cần tiếp tục tham mưu cho các cấp, các ngành tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị số
40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Quyết định số 401/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, chủ động tranh thủ nguồn lực từ ngân sách địa phương để bổ sung nguồn vốn cho vay trên địa bàn; Tiếp tục làm tốt công tác kiểm tra kiểm soát.
Được biết, hiện nay, NHCSXH Việt Nam cũng đang tập trung chỉ đạo việc củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng trong toàn hệ thống, đặc biệt, đối với các chi nhánh có chất lượng tín dụng còn thấp hoặc chưa ổn định, gắn liền với việc làm tốt công tác kiểm tra, kiểm soát. Đây là một biện pháp thiết thực góp phần giảm tỷ lệ nợ khoanh, giảm tỷ lệ nợ quá hạn. Bên cạnh đó, NHCSXH cũng tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị - xã hội, tăng cường công tác chỉ đạo, tập huấn nghiệp vụ cho các cán bộ tham gia công tác ủy thác, nhằm đảm bảo sự tham gia ổn định, tích cực của các tổ chức này vào các chương trình tín dụng chính sách xã hội, trong điều kiện năm 2017, các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức Đại hội các cấp, nên có nhiều sự thay đổi nhân sự, nhất là ở cấp cơ sở. Đây cũng là những giải pháp góp phần phát triển bền vững của NHCSXH trong giai đoạn hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Báo cáo NHCSXH Việt Nam.
- Một số nguồn khác.
(Tạp chí Ngân hàng số 20, tháng 10/2017)