Ngay khi chuyển ngành từ Đại học Kinh tế - Kế hoạch Hà Nội (nay là Đại học Kinh tế Quốc dân) về Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (năm 1971), tôi được bố trí về làm việc tại Vụ Phát hành, lúc đó, bác Vũ Thiện giữ chức Vụ trưởng và bác Lê Đình Khải giữ chức Phó Vụ trưởng. Khi đó, trên khu vực sảnh của trụ sở Ngân hàng Trung ương hiện nay là nơi làm việc của Ngân hàng Ngoại thương, Vụ Kế toán, Vụ Quản lý quỹ ngân sách Nhà nước, Phòng Tiền lương và Vụ Phát hành.
Các phòng xung quanh sảnh là phòng làm việc của Lãnh đạo ngành, Vụ Tổ chức Cán bộ - Đào tạo và Văn phòng Ngân hàng Nhà nước. Trên tầng lửng thì khoang đầu cùng bên phải là nơi làm việc của Văn phòng Đảng ủy, các khoang còn lại được dùng làm Hội trường chung cơ quan. Sở dĩ tôi phải nói lan man một chút về vị trí làm việc của Vụ Phát hành (nằm phía dưới tầng lửng - nay là Phòng truyền thống, và chặn luôn 2 cầu thang đi xuống tầng hầm có kho tiền) là để cho các cán bộ Ngân hàng Trung ương hiện nay hình dung được đôi chút về cách bố trí nơi làm việc trước đây và cũng vì nó có liên can đến một số tình tiết trong câu chuyện mà tôi sẽ kể dưới đây.
Tại Vụ Phát hành, tôi được phân công làm việc ở Phòng Kế hoạch tiền mặt và tổng hợp, do bác Nguyễn Văn Hiểu giữ chức Trưởng phòng và Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Oánh (sau này, giữ chức Vụ trưởng Vụ Phát hành - kho quỹ, rồi Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) giữ chức Phó trưởng phòng. Những công việc cụ thể liên quan tới kho tàng và xuất nhập tiền mặt do Phòng Kế toán phát hành và Phòng Kho quỹ thực hiện. Tuy nhiên, lúc đó, cả Vụ chỉ có 4 Phòng nghiệp vụ và Tổ họa sĩ vẽ mẫu tiền do bác Bùi Trang Chước giữ chức Tổ trưởng, số cán bộ chỉ có khoảng 5 - 6 chục người (trong đó, đông nhất vẫn là Phòng kho quĩ vì ngoài Trưởng, phó Phòng, cán bộ kế toán, còn có Thủ kho, các Phụ kho, kiểm ngân, lái xe chuyển tiền, thợ sửa khóa két và khoá kho), nên những khi cần xuất nhập kho phát hành với khối lượng lớn thì thường huy động tất cả anh chị em cán bộ, nhân viên trong Vụ, trước hết là Chi đoàn thanh niên tham gia bốc xếp vì vừa quen việc, lại vừa bảo đảm an toàn và bí mật kho tàng. Nhưng với những lần chuẩn bị thu đổi và phát hành tiền mới theo chủ trương của Chính phủ thì Ban lãnh đạo đều giao cụ Lê Đức (lúc đó là Phó Tổng Giám đốc - tức Phó Thống đốc - NHNN và nguyên là Vụ trưởng Vụ Phát hành trước bác Vũ Thiện) làm Tổng chỉ huy để huy động nhân lực chung của toàn ngành, trong đó, Vụ Phát hành làm nòng cốt (đầu mối là đồng chí Phan Mậu Nhụy, nguyên Trưởng phòng Kế toán phát hành và sau đó là Phó Vụ trưởng Vụ Phát hành và kho quỹ), và phối hợp với các đơn vị ngoài ngành thực hiện. Chính vì thế, nên ngoài công việc chuyên môn của Phòng, tôi cũng biết được đôi chút chuyện “bếp núc” của việc chuẩn bị nguồn tiền, việc thu đổi tiền để kể lại.
Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cùng với việc tiếp quản Thủ đô Hà Nội, Chính phủ đã chuẩn bị và gấp rút phát hành tiền ngân hàng, thu đổi tiền Đông Dương (ngày 11/10/1954, thực hiện đổi tiền cho nhân dân, theo tỷ lệ: 1 đồng Đông Dương bằng 30 đồng tiền Ngân hàng Quốc gia Việt Nam). Sau đó, cùng với công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, nhiều vấn đề về quản lý tiền tệ cũng như hoạt động tài chính - tín dụng nảy sinh, Nhà nước đã phải tiến hành thêm một số lần thu đổi tiền nữa để điều chỉnh số lượng tiền trong lưu thông, cũng như chuyển đổi mệnh giá đồng tiền cho phù hợp với tập quán sử dụng của nhân dân. Như ngày 27/02/1959, tiến hành thu đổi tiền theo tỷ lệ 1 đồng tiền mới đổi lấy 1.000 đồng tiền cũ; ngày 02/05/1978, phát hành tiền mới, thu đổi tiền cũ trên toàn lãnh thổ Việt Nam theo quy định: 1 đồng tiền ngân hàng mới bằng 1 đồng tiền ngân hàng ở miền Bắc và bằng 0,8 đồng tiền ngân hàng ở miền Nam; ngày 14/09/1985, phát hành tiền mới đổi lấy tiền cũ theo tỷ lệ 10 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước cũ bằng 1 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước mới.
Bên cạnh những lần thu đổi tiền nói trên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam còn tiến hành chuẩn bị cơ sở vật chất để cung cấp phương tiện thanh toán cho vùng giải phóng ở miền Nam. Năm 1964, khi vùng giải phóng được mở rộng với dân số đông, Trung ương đã cho in loại tiền “Ngân hàng Việt Nam” và chuyển vào chiến trường B2. Song, sang năm 1965, có sự can thiệp của Mỹ làm vùng giải phóng bị co hẹp nên việc phát hành loại tiền này không thích hợp nữa. Đến cuối năm 1967, Ngân hàng Trung ương đã chuẩn bị tiền “Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam” (gọi tắt là Tiền giải phóng). Tuy nhiên, sau chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, tình hình chiến trường đã diễn biến khác với dự kiến và vùng giải phóng bị thu hẹp và chia cắt, cộng thêm một số kho tiền bị lộ do địch càn quét nên số tiền này cũng không được phát hành và được Trung ương quyết định hủy bỏ loại tiền này.
Mọi người còn nhớ là chỉ một thời gian ngắn từ ngày 30/04/1975 đến ngày 22/09/1975, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tổ chức cuộc đổi tiền trên quy mô toàn miền Nam để đưa đồng tiền mới có tên là Tiền Ngân hàng Việt Nam vào lưu thông, với tỷ lệ 1 đồng Ngân hàng Việt Nam đổi 500 đồng Việt Nam Cộng hòa. Đây có thể nói là một chiến công thầm lặng của cả hệ thống Ngân hàng ở miền Bắc. Vì loại tiền này đã được Trung ương chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước tổ chức in từ năm 1966 (tính lại là trước ngày giải phóng những 9 năm). Để phục vụ cho việc sản xuất tiền, các họa sĩ của Tổ họa sĩ thuộc Vụ Phát hành đã miệt mài làm việc ngày đêm để sáng tác ra được 3 mẫu tiền kim loại (1 xu, 2 xu và 5 xu) và 8 mẫu tiền giấy (10 xu, 20 xu, 50 xu, 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng và 50 đồng), mỗi mẫu tiền gồm 2 mặt (mặt trước và mặt sau). Và để có được một mẫu tiền chính thức này, các họa sĩ phải phác thảo rất nhiều phương án trình bày khác nhau để đưa các vị lãnh đạo ngân hàng duyệt trước khi được trình lên Trung ương cho ý kiến cuối cùng. Tóm lại, riêng ở khâu này, đã hút rất nhiều công sức và thời gian để chuẩn bị.
Tiến độ của việc sản xuất, chuẩn bị tiền cho miền Nam cũng được thực hiện theo diễn biến của tình hình chiến trường. Với không khí những năm 1965-1968, việc chuẩn bị nguồn tiền có thể nói là dồn dập, hối hả. Khi đó, miền Bắc lại bị không quân Mỹ ném bom và bắn phá, nên tiền sản xuất đến đâu đều được vận chuyển kịp thời đến các kho đặt trong các hang đá của hai tỉnh Bắc Kạn và Cao Bằng. Lúc đó, những thùng tiền này luôn ở trong tư thế chuẩn bị vận chuyển đi vào phía Nam khi có lệnh của trên. Cho đến những năm 1970-1972, do các thùng tiền được đóng bằng gỗ thông (bên trong có các lớp giấy sáp bọc bó tiền) và cũng chưa biết khi nào thì số tiền này được phát hành ra và có thể bị ẩm làm hư hỏng tiền, nên Ban lãnh đạo quyết định cho gia cố thêm một lớp vỏ tôn bên ngoài thùng gỗ. Thế là một nhóm cán bộ ngân hàng được lựa chọn để làm công việc bí mật này. Tôi nhớ là bác Nguyễn Văn Hiểu cùng một số cán bộ Vụ Phát hành và Ngân hàng Ngoại thương (trong đó, tôi nhớ rõ nhất có ba anh thanh niên phải rời “bàn giấy” để lên đây là các anh (nay đều đã thành các ông) Hà Phước Chức, Đỗ Văn Thìn và Lê Bình Hào đã hàng năm trời sống ở trong hang đá để cắt tôn, hàn thành hộp, bọc các thùng tiền bằng gỗ lại. Bọc xong lại lấy sơn phun kẻ lại những số hiệu, mã hiệu y nguyên như trên thùng gỗ bên trong. Đúng là một việc cực chẳng đã, vì là nhiệm vụ tối mật, nên mấy anh chàng thư sinh vốn chỉ quen với bút và giấy cũng theo kịp với công việc chân tay nặng nhọc đó. Khi sắp bọc hết số thùng gỗ này thì ngày 30/04/1975 đến. Thế là các thùng còn lại không cần bọc nữa và bắt đầu được đưa dần lên ô tô tải và cả máy bay C130 để chuyển vào tập kết ở các kho trong miền Nam. Từ đấy, mới thực hiện được việc đổi tiền ngày 22/09/1975 như nói ở trên.
Tiếp đến là lần chuẩn bị cho việc đổi tiền năm 1978. Vì đây là đồng tiền chung đầu tiên của cả nước, với tên gọi là “Tiền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” nên yêu cầu giữ bí mật tuyệt đối cũng được đặt ra, nhất là, tỷ lệ thu đổi giữa tiền cũ với tiền mới theo tỷ lệ thế nào và mức tiền mặt của mỗi người và mỗi hộ gia đình được đổi ngay là bao nhiêu (số vượt mức được giữ ở tài khoản trong ngân hàng). Việc chuẩn bị (sản xuất) tiền và bảo quản trong các kho tàng do trong thời bình nên không quá vất vả như kể ở phần trên. Câu chuyện mà tôi nhớ mãi ở đây là các việc chuẩn bị gồm in các thông báo của Chính phủ để phổ biến vào ngày tiến hành thu đổi tiền và in các tài liệu hướng dẫn, tập huấn cho các cán bộ (cả trong ngành và ngoài ngành Ngân hàng) được trưng tập để làm công tác thu đổi tiền.
Do số lượng mỗi loại tài liệu cần rất nhiều nên phải được in bằng máy in “typo” (để phân biệt với phương pháp in thủ công lúc đó là in “ronéo”) có công suất lớn. Nhà máy in Tiến bộ (lúc đó ở phố Nguyễn Thái Học, Hà Nội) được Ban chỉ đạo lựa chọn để in các tài liệu này. Dưới sự hướng dẫn của các cán bộ an ninh, Ban giám đốc nhà máy đã bố trí việc in ấn tại một phân xưởng vào ca 3 (từ 22 giờ hôm trước đến 6 giờ sáng hôm sau) trong khoảng 2 tuần lễ. Trong thời gian nhà máy làm nhiệm vụ này, các phân xưởng còn lại đều nghỉ không làm ca 3. Đồng thời, Phòng nhân sự của nhà máy lựa chọn các công nhân có kỹ thuật cao, có “lý lịch bảo đảm” và ý thức kỷ luật, giữ gìn bí mật tốt để làm công việc sắp chữ, lên “phông” và điều hành máy in, máy cắt xén và đóng tài liệu thành quyển. Một số cán bộ của Vụ Phát hành được bố trí làm cùng các công nhân nhà in để giám sát các bản in ra không bị thất lạc, rơi vãi… Tôi còn nhớ rõ là trước khi vào ca, cán bộ Vụ Phát hành cùng cán bộ bên an ninh kiểm tra kỹ địa điểm làm việc, lấy chữ ký của từng người tham gia làm ca hôm đó; tổ chức giao - nhận bản chữ đúc… Khi công nhân in ra sản phẩm thì chúng tôi sắp xếp theo từng loại, bó lại gọn gàng để gần cuối ca làm sẽ chuyển hết tài liệu về kho của ngân hàng. Bản chữ đúc được tháo ra và giao lại cho cán bộ an ninh bảo quản. Chúng tôi còn phân công nhau quét dọn sạch sẽ phân xưởng, như là chưa hề có ai làm việc ở đây đêm qua!
Một chi tiết nhỏ nhưng cũng được người lãnh đạo kỳ cựu và đầy kinh nghiệm là cụ Lê Đức chỉ đạo chúng tôi thực hiện. Cụ nói, “không khí gần đến thời gian thu đổi tiền có thể mọi người cảm nhận được, nhưng thời gian cụ thể thì không thể biết được, do đó, các cán bộ của Vụ Phát hành phải cố gắng đảm bảo quân số ở nơi làm việc. Các cậu đi làm ca 3 ở nhà in xong thì tranh thủ về nhà tắm rửa cho tỉnh táo rồi đến ngồi ở bàn làm việc, có ngủ gật cũng được, tớ cho phép. Những lúc vui vẻ, Cụ thường xuề xoà nói với cán bộ cấp dưới như vậy). Nhớ là làm sao để cán bộ các vụ khác đi qua chỗ làm việc của Vụ Phát hành không thấy có điều gì bất thường”. Chính vì vậy, mà không chỉ những ngày phải làm thêm ca 3, có những đêm, cần chúng tôi áp tải “hàng” đến những kho ở các tỉnh khác, mấy thanh niên Vụ Phát hành chúng tôi hôm sau vẫn có mặt và ngồi ở bàn làm việc, như bình thường!
Kể đến đây chắc nhiều người nghĩ rằng tài liệu thu đổi mà được in kiểu đại trà như thế thì khó mà giữ được bí mật! Xin thưa là những yếu tố quyết định nhất (là ngày, giờ; tỷ lệ thu đổi và số lượng tiền được đổi ngay; cũng như số hiệu của Bàn thu đổi) cũng được Ban chỉ đạo tính đến là chưa được in trong tài liệu (thực chất thì ngày tiến hành thu đổi đến cả cấp cao nhất cũng không biết được vào ngày nào!), mà được bỏ trống theo những quãng cách được tính toán kỹ lưỡng để sau này, từng đơn vị thu đổi sẽ in bổ sung theo cách thủ công bằng các chữ số đúc sẵn phát cho các đơn vị, khi được Ban chỉ đạo phổ biến cụ thể. Như vậy, mặc dù lãnh đạo các đơn vị có đủ các chữ số đúc sẵn từ số 0 đến số 9, nhưng cũng không thể biết được cụ thể ngày, giờ thu đổi và tỷ lệ thu đổi ra sao. Chính vì thế mà có thể nói rằng những vấn đề cần giữ bí mật trong các lần thu đổi tiền, Ban chỉ đạo đã tính toán kỹ và bảo đảm được theo yêu cầu của cấp trên.
Việc giữ bí mật cho công tác thu đổi tiền còn được thấm nhuần và triển khai “sáng tạo” đến lãnh đạo các Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước địa phương. Đó là câu chuyện một anh lái xe của Chi nhánh NHNN Hà Sơn Bình được đặc cách (hay là bị “bắt cóc”) bổ sung vào bộ phận chuẩn bị thu đổi tiền của tỉnh. Nguyên do là gần đến thời gian thu đổi tiền năm 1978, nhiều đêm, Giám đốc chi nhánh NHNN Hà Sơn Bình (lúc đó là ông Lộc Hà) phải đi đến làm việc và kiểm tra công tác chuẩn bị của Đơn vị HSB ở một địa điểm bí mật. Ông Lộc Hà có tiếng là cẩn thận và nguyên tắc, nên chỉ đi ô tô rẽ vào làng một người quen gần địa điểm đó, rồi xuống đi bộ để đến địa điểm kia. Nhiều đêm không xảy ra chuyện gì. Đến đêm gần như cuối cùng, khi ông đi bộ trở ra thì thấy lái xe của ông đang rọi đèn pha lên đường chính, đúng vào lúc có mấy chiếc xe tải chở tiền của NHTW chạy qua. Sở dĩ biết được là xe chở tiền của NHTW, vì lúc đó, theo quy định của ngành Công an, trên cánh cửa ca-bin của xe có in 3 chữ in khổ lớn là “NHT” (mà cán bộ ngân hàng thường gọi vui là “Nhà hát tuồng”!). Cho rằng lái xe của mình đã nhìn thấy đoàn xe đó và dễ dàng đoán ra nội dung công việc của mình đến đây làm việc gì (kết hợp với tin đồn đang lan truyền âm ỉ trong dân), nên ông Lộc Hà đã gặng hỏi lái xe là có nhìn thấy đoàn xe NHTW không? Mặc dù anh lái xe thề sống thề chết là chưa nhìn thấy gì, nhưng vốn có tính kỹ càng của một “quan huyện” ngày trước, ông Giám đốc ngân hàng vẫn lên xe và chỉ đường cho anh lái xe đi vào nơi tập trung chuẩn bị cho công tác thu đổi tiền của tỉnh. Vào đến nơi, ông giao nhiệm vụ cho anh lái xe là ở lại làm các công việc ở đây cho đến khi nào ông gọi thì về. Ông cũng hứa với anh lái xe, là sẽ thông báo cho vợ lái xe biết chồng đi công tác đột xuất ít ngày rồi về. Sau đó, tôi nghe nói, tính cả những ngày chuẩn bị, rồi cả những ngày bị cuốn vào công việc thu đổi bận rộn, đồng chí lái xe của chi nhánh đã xa nhà một mạch hơn 1 tháng trời!
* *
*
Toàn thể cán bộ, nhân viên ngành Ngân hàng Việt Nam đang hân hoan chờ đón Lễ Kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Ngành (06/05/1951 - 06/05/2021). Trong suốt chiều dài 70 năm ấy, đã có bao thế hệ cán bộ ngân hàng góp công, góp sức và góp cả xương máu để có được hệ thống ngân hàng Việt Nam lớn mạnh, hiện đại như ngày hôm nay. Được chứng kiến sự lớn mạnh vượt bậc, sự bứt phá ngoạn mục của ngành Ngân hàng để theo kịp sự đổi mới và làm hậu cần vững chắc cho nền kinh tế, thế hệ chúng tôi bên cạnh việc nhớ lại những thời khắc khó khăn trước đây trong hoạt động ngân hàng, càng vui mừng về sự trưởng thành của Ngành và càng tin tưởng về tương lai tươi sáng của hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới.
Phùng Khắc Kế
Nguyên Phó Thống đốc NHNN
( Theo TCNH số 13/2020)