Nông nghiệp, nông thôn, nông dân là lĩnh vực được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm.Dấu ấn lớn nhất trong năm 2015 là Chính phủ đã ban hành Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn có hiệu lực từ ngày 25/7/2015 thay thế Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ.
Thực hiện chủ trương của Chính phủ, trong suốt giai đoạn vừa qua, ngành ngân hàng đã luôn đồng hành, gắn bó mật thiết với “ba nông” (nông nghiệp, nông thôn, nông dân), từ việc hoạch định chính sách của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đến việc triển khai, thực thi của các tổ chức tín dụng (TCTD) trên mọi lĩnh vực. Trong điều hành chính sách, NHNN luôn xác định nông nghiệp, nông thôn là một trong 5 lĩnh vực ưu tiên và đã chỉ đạo các TCTD tập trung nguồn vốn cho vay, thực hiện các giải pháp đẩy mạnh cho vay hiệu quả phát triển nông nghiệp, nông thôn nhằm giúp người dân, doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận vốn vay phục vụ sản xuất kinh doanh. Có thể nhìn lại những “điểm mới” và “điểm sáng” trong chính sách mà năm 2015 NHNN đã nỗ lực xây dựng ban hành để tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho nông nghiệp, nông thôn, nông dân, cụ thể:
- Ngay sau khi có Nghị định 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn của Chính phủ, NHNN đã kịp thời ban hành Thông tư số 10/2015/TT-NHNN ngày 22/7/2015, với 4 điểm mới nổi bật là: (i) Đối tượng cá nhân, hộ kinh doanh tham gia kinh doanh sản xuất nông nghiệp dù ngoài địa bàn cũng được hưởng chính sách tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn; (ii) Mức cho vay không thế chấp có thể tối đa lên đến 100 triệu đồng với cá nhân, 300 triệu đồng với hộ kinh doanh, lên đến 3 tỷ đồng đối với Liên hiệp Hợp tác xã; (iii) Có quy định riêng về chính sách tín dụng khuyến khích đối với mô hình liên kết chuỗi giá trị và ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp; (iv) Có quy định về nguyên tắc và quy trình xử lý rủi ro do gặp phải thiên tai, dịch bệnh trên diện rộng.
- Nghị định 89/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 67/2014/NĐ-CP ngày 07/07/2014 về một số chính sách phát triển thủy sản, có hiệu lực từ ngày 25/11/2015 nhằm tháo gỡ những vướng mắc, tạo cơ hội cho ngư dân tiếp cận vốn vay tốt hơn để đẩy mạnh khai thác hải sản xa bờ, góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Theo đó, điểm mới nổi bật nhất là thời hạn cho vay đã được sửa đổi. Thay vì quy định thời hạn cho vay 11 năm, Nghị định 89 đã quy định thời hạn cho vay đối với từng trường hợp. Cụ thể, thời hạn cho vay hỗ trợ lãi suất 11 năm đối với trường hợp đóng mới tàu vỏ gỗ hoặc nâng cấp tàu; 16 năm đối với đóng mới tàu vỏ thép hoặc vỏ vật liệu mới. Ngoài ra, Nghị định 89 cũng tạo thuận lợi hơn cho ngư dân như: được hỗ trợ 100% chi phí thiết kế tàu vỏ thép, vật liệu mới có công suất từ 400CV trở lên; năm đầu tiên sau khi giải ngân, chủ tàu được miễn lãi và chưa phải trả nợ gốc. Theo đó, NHNN đã ban hành Thông tư số 21/2015/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 22/2014/TT-NHNN ngày 15/8/2014 của NHNN hướng dẫn thực hiện quy định tại Nghị định 67/2014/NĐ-CP.
Song song với việc ban hành chính sách, NHNN đã sát sao chỉ đạo các TCTD thực hiện hỗ trợ ưu tiên cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Nhờ đó, trong những năm qua, tín dụng nông nghiệp của hệ thống ngân hàng luôn có tỷ trọng dao động ở mức xung quanh 10%, tăng bình quân trên10%/năm. Các chương trình tín dụng mục tiêu của hệ thống ngân hàng luôn được ưu tiên thực hiện và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận:
- Cho vay lĩnh vực lúa, gạo: Dư nợ cho vay lúa gạo toàn quốc ước đạt khoảng 31.500 tỷ đồng, tăng 12% so với 31/12/2014, trong đó, dư nợ tại 13 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đạt 25.000 tỷ đồng, tăng 11,4% so với 31/12/2014.
- Cho vay đối với lĩnh vực thủy sản: Dư nợ cho vay thủy sản toàn quốc đến 31/12/2015 ước đạt 66.800 tỷ đồng, tăng 9,5% so với 31/12/2014. Kết quả triển khai thực hiện theo văn bản số 1149/TTg-KTN ngày 08/8/2012 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách cho vay đối với chăn nuôi và thủy sản của 5 NHTM: Dư nợ cho vay đến cuối tháng 12/2015 ước đạt 45.500 tỷ đồng, tăng 12% so với 31/12/2014. Dư nợ được cơ cấu đến cuối tháng 12/2015 đối với lĩnh vực tôm và cá tra khoảng 2.000 tỷ đồng. Theo Quyết định số 540/QĐ-TTg ngày 16/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách tín dụng đối với người nuôi tôm và cá tra gặp khó khăn: Đã có 6 ngân hàng thực hiện khoanh nợ cho 11.668 khách hàng với tổng số tiền khoanh nợ là trên 777,52 tỷ đồng tại 9 tỉnh, thành phố.
- Cho vay tái canh cà phê tại Agribank: Đến 30/11/2015, dư nợ cho vay tái canh cà phê tại Agribank là 733,36 tỷ đồng, tái canh diện tích 8.299ha, đối với 6.206 khách hàng được vay vốn theo chương trình.
- Cho vay theo chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp theo Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ: Đến cuối tháng 12/2015, tổng dư nợ cho vay ước đạt khoảng 3.500 tỷ đồng, tăng 89,4% so với 31/12/2014, trong đó: (i) Dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đạt 3.140 tỷ đồng, tăng 112% so với cuối năm 2014; (ii) Dư nợ cho vay theo lãi suất tín dụng đầu tư đạt 360 tỷ đồng, giảm 1,9% so với cuối năm 2014.
- Cho vay đóng mới, nâng cấp tàu theo Nghị định 67: Đã có 27/28 tỉnh, thành phố có biển đã phê duyệt được danh sách các chủ tàu đủ điều kiện vay vốn để đóng mới, nâng cấp 1.262 tàu trong đó: đóng mới 1.108 tàu (đạt 48,5% tổng số tàu cần đóng mới 2.284 tàu theo Quyết định số 3602/QĐ-BNN-TCTS của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), nâng cấp 154 tàu. Thành phố Hồ Chí Minh chưa phê duyệt danh sách các chủ tàu đủ điều kiện vay vốn theo Nghị định 67. Hiện nay, 4 NHTM Nhà nước đã nhận được 534 bộ hồ sơ của chủ tàu tại 26/27 tỉnh, thành phố và đã ký hợp đồng tín dụng để đóng mới, nâng cấp 301 tàu (đóng mới 296 tàu, nâng cấp 5 tàu), với tổng số tiền các ngân hàng cam kết cho vay trên 3.150 tỷ đồng. Dư nợ đến thời điểm báo cáo đạt 1.120 tỷ đồng. Mức cho vay theo nhu cầu của khách hàng từ 60% - 95% tổng giá trị đầu tư đóng mới, nâng cấp con tàu, tài sản bảo đảm là chính con tàu. Trong 07 tháng trở lại đây, việc ký kết các hợp đồng tín dụng của ngư dân đã tăng lên đáng kể (số lượng hợp đồng tín dụng được ký kết tăng hơn 4 lần so với thời điểm 30/6/2015). Đến nay, đã có 60 con tàu hoàn thành đóng mới, nâng cấp, được hạ thủy và đưa vào hoạt động.
Kết quả cho vay vốn lưu động: Các NHTM đã thực hiện giải ngân cho 179 lượt khách hàng với tổng số tiền gần 58 tỷ đồng tại các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Tiền Giang, Phú Yên, Thừa Thiên Huế, Khánh Hòa.
- Xử lý tháo gỡ khó khăn tín dụng cho hộ nuôi tôm, cá tra theo Quyết định số 540/QĐ-TTg ngày 16/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ: Đã có 6 ngân hàng thực hiện khoanh nợ cho 11.668 khách hàng với tổng số tiền khoanh nợ là trên 777,52 tỷ đồng tại 9 tỉnh, thành phố. Ở thời điểm hiện tại, NHNN đã thực hiện tái cấp vốn đối với 02 ngân hàng (SCB, Agribank) với số tiền 458,25 tỷ đồng và đang tiếp tục xem xét tái cấp vốn cho các NHTM khác thực hiện khoanh nợ cho các hộ dân nuôi tôm và cá tra gặp khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng. Đến 30/11/2015, các TCTD đã thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo Quyết định số 540/QĐ-TTg đối với 39 khách hàng với dư nợ đạt khoảng 30 tỷ đồng, trong đó gia hạn nợ 27 tỷ đồng và điều chỉnh kỳ hạn trả nợ 3 tỷ đồng.
- Chương trình tín dụng cho vay theo chuỗi giá trị và ứng dụng công nghệ cao theo Nghị quyết số 14/NQ-CP ngày 5/3/2014 của Chính phủ: NHNN đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Quyết định số 1050/QĐ-NHNN ngày 28/5/2014 về chương trình cho vay thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp nhằm khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm, xây dựng cánh đồng lớn; khuyến khích ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp và thúc đẩy xuất khẩu. Kết quả cụ thể thực hiện chương trình này: Chương trình đã lựa chọn 31 dự án của 28 doanh nghiệp tại 22 tỉnh, thành phố tham gia thí điểm. Số tiền các NHTM đã ký kết với các doanh nghiệp tham gia chương trình lên tới hơn 5.627 tỷ đồng, đến 20/12/2015 đã giải ngân 6.125,4 tỷ đồng, dư nợ đạt 1.998 tỷ đồng. Lãi suất ngắn hạn hiện áp dụng là
6,5%/năm, một số dự án có lãi suất thấp hơn ở mức 5,4-6,3%/năm.
- Cho vay xóa đói, giảm nghèo qua các năm: Ưu đãi vốn cho 25 triệu lượt hộ nghèo và đối tượng chính sách; góp phần giúp 3,6 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo; tạo việc làm cho 11,8 triệu lao động từ các chương trình chính sách; hỗ trợ trên 3,3 triệu học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập; xây dựng gần 6,6 triệu công trình cung cấp nước sạch và vệ sinh ở nông thôn; xây dựng được 484 nghìn căn nhà cho hộ nghèo và các hộ gia đình chính sách; xây dựng 700 chòi tránh lũ; trên 102 nghìn ngôi nhà vượt lũ cho hộ gia đình vùng Đồng bằng sông Cửu Long…
Các chương trình mục tiêu trên đã được NHNN nỗ lực triển khai trong suốt giai đoạn vừa qua, mục tiêu ưu tiên xuyên suốt trong các chương trình là tập trung nguồn vốn triển khai thí điểm cho vay các mô hình liên kết chuỗi giá trị, mô hình ứng dụng công nghệ cao nhằm nâng cao hiệu quả, khả năng cạnh tranh, chất lượng sản phẩm và đáp ứng nhu cầu ngày một đa dạng của người tiêu dùng, đặc biệt đáp ứng các yêu cầu tiêu chuẩn hàng hóa xuất khẩu.
Các mô hình liên kết chuỗi giá trị, mô hình ứng dụng công nghệ cao cần có sự liên kết chặt chẽ giữa 5 nhà: nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà tư vấn và nhà nông. Trong đó, doanh nghiệp với vai trò trung tâm cần phát huy được sự năng động, sáng tạo. Trên thực tế, nếu chỉ tập trung gánh nặng vào vai chính sách tín dụng ngân hàng thì hiệu quả chính sách sẽ không cao.Để phát triển các mô hình này trong nông nghiệp một cách bền vững, hiệu quả hơn cần có nhiều chính sách hỗ trợ của Nhà nước như tăng đầu tư từ ngân sách Nhà nước để phát triển khoa học và công nghệ trong nông nghiệp; xây dựng sản phẩm nông nghiệp chủ lực của quốc gia, những sản phẩm có tiềm năng như: gạo, cà phê, cao su, thủy sản, thịt lợn, sữa, lâm sản… Trên cơ sở đó, xây dựng chương trình, kế hoạch đầu tư về khoa học và công nghệ trong chọn, tạo giống, tổ chức sản xuất, xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng. Cần hình thành các khu nông nghiệp công nghệ cao hoạt động có hiệu quả tại những vùng nông nghiệp trọng điểm. Mặt khác, cần có sự hỗ trợ đồng bộ từ các chính sách khác như chính sách về bảo hiểm các sản phẩm nông nghiệp; vấn đề về quy hoạch; chính sách về đất đai, dồn điền đổi thửa… Và yếu tố quan trọng không thể thiếu là sự vào cuộc của chính quyền các cấp trong quản lý quy hoạch, quản lý thị trường sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và các mô hình liên kết trong nông nghiệp phát triển.
Bên cạnh đó, đối với lĩnh vực này, nhu cầu vốn rất lớn nhưng hiện nay nguồn vốn kể cả ngắn hạn và dài hạn qua kênh ngân hàng chưa đủ đáp ứng.Mặc dù, NHNN đã chủ động, định hướng rõ trong chính sách tín dụng đối với các chương trình ưu tiên này, tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện tại các TCTD, còn thiếu những quy định, quy trình cụ thể đối với từng đối tượng vay vốn, từng mô hìnhvới những tiêu chuẩn, đặc điểm kỹ thuật khác nhau, từng vùng khác nhau… Đây không chỉ là vướng mắc trong cho vay các mô hình liên kết chuỗi giá trị, mô hình ứng dụng công nghệ cao mà đối với các chương trình tín dụng mục tiêu khác mà ngành ngân hàng đang triển khai cũng gặp phải như cho vay tái canh cà phê triển khai tại Agribank…
Như vậy, để có thể phát triển nền nông nghiệp bền vững trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, trước hết cần có định hướng và chỉ đạo của Nhà nước để tạo lập một khung chính sách chung cho phát triển nông nghiệp, nông thôn trong đó có sự phối hợp đồng bộ, toàn diện giữa các Bộ, Ngành và chính quyền địa phương trong triển khai thực hiện chính sách.
Về phía NHNN, cần có đánh giá, tổng kết về các chương trình tín dụng đang triển khai thực hiện, nhận diện những khó khăn, vướng mắc để hoàn thiện chính sách. Trong đó, cần sớm có đánh giá tổng kết đầy đủ về chương trình thí điểm cho vay theo chuỗi giá trị để nhân rộng trong các ngành hàng của sản xuất nông nghiệp. NHNN cũng cần có những nghiên cứu, điều tra, khảo sát về tình hình thực tế triển khai các chính sách tín dụng, các chương trình tín dụng mục tiêu đang thực hiện tại các địa phương khác nhau để xây dựng, điều chỉnh và hoàn thiện khung chính sách tín dụng và để các TCTD có cơ sở để xây dựng các quy trình cấp tín dụng riêng, phù hợp với từng đối tượng cụ thể.
Tài liệu tham khảo:
ThS. Phạm Xuân Hòe, “Tín dụng ngân hàng cho nông nghiệp, nông thôn cần cách tiếp cận toàn diện và đột phá”,Hội thảo khoa học về “Đánh giá cơ chế, chính sách trong nông nghiệp nông thôn phục vụ tái cơ cấu và thu hút đầu tư”, Hà Nội, tháng 12/2015.
ThS.Nguyễn Thị Hiền
Nguồn:Tạp chí Ngân hàng số 5-2016