Nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi: Tiếp tục thực hiện hiệu quả mục tiêu của chính sách bảo hiểm tiền gửi
05/11/2021 7.185 lượt xem
Việc nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm từ 75 triệu đồng lên 125 triệu đồng là một chính sách quan trọng, tích cực của Chính phủ nhằm nâng cao quyền lợi cho người gửi tiền là cá nhân tại các tổ chức tín dụng (TCTD)...
 
Việc nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm từ 75 triệu đồng lên 125 triệu đồng là một chính sách quan trọng, tích cực của Chính phủ nhằm nâng cao quyền lợi cho người gửi tiền là cá nhân tại các tổ chức tín dụng (TCTD). Từ đó cho thấy, vai trò của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) ngày càng quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi (BHTG), góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống BHTG, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.

Ngày 20/10/2021 Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 32/2021/QĐ-TTg về hạn mức trả tiền bảo hiểm (Quyết định số 32/2021/QĐ-TTg), thay thế Quyết định số 21/2017/QĐ-TTg ngày 15/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về hạn mức trả tiền bảo hiểm, trong đó quy định số tiền tối đa tổ chức bảo hiểm tiền gửi trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của Luật Bảo hiểm tiền gửi (gồm cả gốc và lãi) của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm là 125 triệu đồng. Quyết định này có hiệu lực thi hành từ ngày 12/12/2021.
 

 
                                                                              Ảnh: Nguồn Internet

Tại Việt Nam, theo quy định tại Luật Bảo hiểm tiền gửi, hạn mức BHTG là số tiền tối đa mà tổ chức BHTG trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia BHTG khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm. Hạn mức này được Thủ tướng Chính phủ quy định theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) trong từng thời kỳ để phù hợp với sự thay đổi điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.

Những năm đầu, chính sách BHTG được triển khai tại Việt Nam, hạn mức BHTG (bao gồm cả gốc lẫn lãi) của một cá nhân tối đa là 30 triệu đồng, được quy định tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ. Đến năm 2005, tại Nghị định số 109/2005/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP, hạn mức này được điều chỉnh lên 50 triệu đồng.

Từ ngày 05/8/2017, hạn mức BHTG đã được nâng từ 50 triệu đồng lên mức 75 triệu đồng theo Quyết định số 21/2017/QĐ-TTg. Việc điều chỉnh hạn mức BHTG thể hiện cam kết mạnh mẽ của Chính phủ, NHNN trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Tuy nhiên, hạn mức 75 triệu đồng được đánh giá là chỉ bảo vệ toàn bộ được 87,32% tại thời điểm hạn mức mới có hiệu lực.

Theo Quyết định số 32/2021/QĐ-TTg, từ ngày 12/12/2021, hạn mức BHTG được nâng lên mức 125 triệu đồng.

Việc nâng mức BHTG này nhằm thực hiện hiệu quả mục tiêu của chính sách BHTG, không chỉ bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, đặc biệt là người gửi tiền quy mô nhỏ, mà còn góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD), bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.

Nâng hạn mức BHTG phù hợp điều kiện Việt Nam và thông lệ quốc tế

Theo khuyến cáo của Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI), hạn mức BHTG nên có giới hạn, đáng tin cậy và bảo hiểm cho phần lớn người gửi tiền, phù hợp với mục tiêu chính sách công và đặc điểm liên quan của hệ thống BHTG của quốc gia đó.

Cũng theo IADI, các tiêu chuẩn cơ bản để xây dựng hạn mức và phạm vi bảo hiểm phù hợp tại từng quốc gia gồm:

Thứ nhất, hạn mức và phạm vi bảo hiểm cần có giới hạn để giảm thiểu rủi ro rút tiền ngân hàng và duy trì kỷ luật thị trường, đảm bảo phần lớn người gửi tiền ở các ngân hàng được bảo vệ (chiếm tỷ lệ từ 90 - 95% người gửi tiền) nhưng có một tỷ lệ nhất định giá trị tiền gửi không được bảo vệ.

Thứ hai, đảm bảo công bằng cho tất cả các ngân hàng thành viên.

Thứ ba, điều chỉnh định kỳ (khoảng 5 năm một lần) để đáp ứng mục tiêu chính sách công.

Ngoài ra, hạn mức BHTG cần được cân nhắc dựa trên nhiều yếu tố, như: lạm phát, thu nhập của người dân, năng lực tài chính của tổ chức BHTG, tình hình hệ thống tài chính - ngân hàng, hiệu lực của cơ chế giám sát...

Theo khảo sát thường niên của IADI năm 2018, Thái Lan và Indonesia có hạn mức BHTG ở mức rất cao so với GDP bình quân đầu người, lần lượt là 62,8 lần và 38,5 lần với tỷ lệ bảo vệ toàn bộ người gửi tiền lên đến 99,9%. Đa số các quốc gia còn lại quy định hạn mức BHTG không quá 5 lần GDP bình quân đầu người.

Từ thông lệ quốc tế và thực tế Việt Nam cho thấy, hạn mức BHTG nâng lên 125 triệu đồng là phù hợp với 3 yêu cầu xây dựng hạn mức BHTG nêu tại Bộ nguyên tắc cơ bản phát triển hệ thống BHTG hiệu quả (2014) và hướng dẫn của IADI. Cụ thể:

Thứ nhất, đối với yêu cầu tỷ lệ người gửi tiền được bảo hiểm toàn bộ/tổng số người gửi tiền được bảo hiểm: Với hạn mức 125 triệu đồng, BHTGVN đảm bảo bảo vệ toàn bộ đối với tiền gửi của khoảng 91% người gửi tiền trong hệ thống ngân hàng, nằm trong khoảng khuyến nghị của IADI là từ 90% - 95% người gửi tiền, đáp ứng thông lệ quốc tế.

Thứ hai, hạn mức BHTG cần đáp ứng yêu cầu đảm bảo phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội.

Những năm gần đây, kinh tế vĩ mô của Việt Nam được duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, tăng trưởng kinh tế dự báo tiếp tục khả quan. GDP bình quân đầu người danh nghĩa (chưa tính đến yếu tố lạm phát) của Việt Nam tăng trưởng tốt, năm 2020 đạt tương đương 2.750 USD. Theo đó, với hạn mức BHTG 75 triệu đồng chỉ bằng 1,2 lần GDP bình quân đầu người năm 2020, thấp hơn so với thông lệ quốc tế. Hạn mức BHTG 125 triệu đồng, tương đương 2 lần GDP bình quân đầu người, không chỉ phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, mà còn theo kịp thực tế hoạt động của hệ thống các TCTD.

Thực tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam không ngừng lớn mạnh về quy mô vốn cũng như tài sản, đảm bảo nhiệm vụ lưu thông vốn và đóng góp ngày càng quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế. Theo số liệu thống kê của NHNN, tính đến hết tháng 4/2021, tổng tài sản của hệ thống ngân hàng đã vượt 14,3 triệu tỷ đồng, tăng trưởng 2,44% so với thời điểm cuối năm 2020. Không những thế, thời gian qua, thực hiện Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015 và 2016 - 2020, NHNN và các cấp, các ngành đã tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác tái cơ cấu, xử lý nợ xấu của các TCTD. Nhờ đó, hoạt động của hệ thống các TCTD đã từng bước được củng cố, chấn chỉnh và hoạt động an toàn, hiệu quả, trong đó các ngân hàng thương mại có xu hướng tăng trưởng và phát triển ổn định hơn.

Thứ ba, đảm bảo phù hợp với năng lực tài chính của tổ chức BHTG.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng, năng lực tài chính của BHTGVN cũng gia tăng đáng kể. Theo số liệu của BHTGVN, tính từ tháng 12/2016 đến tháng 12/2020, Quỹ dự phòng nghiệp vụ tăng từ 27,19 nghìn tỷ đồng lên 64,27 nghìn tỷ đồng, tổng nguồn vốn tăng từ 33,09 nghìn tỷ đồng lên 70,58 nghìn tỷ đồng. Đây là nguồn tích lũy quan trọng đảm bảo việc triển khai nhiệm vụ của BHTGVN, giúp BHTGVN có đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ người gửi tiền theo thông lệ, chuẩn mực quốc tế; cũng như tham gia có hiệu quả vào quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD thông qua hoạt động hỗ trợ tài chính.

Bên cạnh nguồn vốn tự có, Luật BHTG còn cho phép BHTGVN được tiếp nhận thêm các nguồn vốn hỗ trợ khác, gồm: Tiếp nhận hỗ trợ theo nguyên tắc có hoàn trả từ Ngân sách Nhà nước theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc vay của TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính phủ trong trường hợp nguồn vốn của BHTGVN tạm thời không đủ để trả tiền bảo hiểm; tiếp nhận các nguồn tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài để tăng cường năng lực hoạt động. Như vậy, trong trường hợp nguồn vốn tạm thời không đủ để trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền, BHTGVN có thể huy động thêm nguồn vốn khác phục vụ yêu cầu chi trả.

Tóm lại, hạn mức BHTG được nâng lên 125 triệu đồng trên cơ sở đảm bảo phù hợp với khả năng tài chính hiện nay của BHTGVN và phù hợp với các điều kiện kinh tế vĩ mô, đáp ứng được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, theo thông lệ quốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế đang phải gánh chịu áp lực lớn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, hạn mức 125 triệu đồng là mức độ bảo vệ phù hợp, khi năng lực tài chính của tổ chức BHTG có thể ứng phó trong trường hợp xảy ra rủi ro, đảm bảo chi trả kịp thời cho người gửi tiền nếu phát sinh nghĩa vụ.

Cần nâng cao hơn nữa vai trò của BHTGVN

BHTGVN là tổ chức tài chính nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, thực hiện chính sách BHTG, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các BHTGVN, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.

Thời gian tới, cùng với sự phát triển của hệ thống ngân hàng theo các chuẩn mực quốc tế, đòi hỏi tổ chức BHTG cần nâng cao tính chuyên nghiệp, đủ mạnh về tiềm lực tài chính với thể chế đồng bộ để có thể xử lý hiệu quả các ngân hàng có tổng tài sản ở mức trung bình trở xuống khi cần thiết, chứ không dừng lại ở mức chỉ đủ chi trả và xử lý rủi ro thanh khoản của các Quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) như những năm qua. 

Do đó, cần nâng cao năng lực tài chính của BHTGVN, tăng cường vai trò của tổ chức BHTG trong việc hỗ trợ có hiệu quả quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD. Để thực hiện mục tiêu này, cần phát huy vai trò của BHTGVN theo những nhiệm vụ được đưa ra tại Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các TCTD năm 2017 như: Cho vay đặc biệt; mua trái phiếu dài hạn của TCTD hỗ trợ; đánh giá tính khả thi của phương án phục hồi TCTD được kiểm soát đặc biệt; tham gia xây dựng phương án phá sản TCTD được kiểm soát đặc biệt trình NHNN xem xét, quyết định. 

Trong bối cảnh hiện nay, việc tăng hạn mức trả tiền bảo hiểm phù hợp với năng lực tài chính của BHTGVN để bảo vệ người gửi tiền tốt hơn, nhưng phí BHTG không tăng để không tạo gánh nặng đối với các tổ chức tham gia BHTG bởi đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, hệ thống ngân hàng đang nỗ lực đồng hành cùng người dân, doanh nghiệp vượt qua khó khăn để khôi phục sản xuất kinh doanh.

Như vậy, việc tăng hạn mức BHTG nâng cao mức độ bảo vệ người gửi tiền, song cũng đặt lên vai tổ chức BHTG một áp lực nhất định khi phí BHTG không điều chỉnh tăng theo. Vì thế, BHTGVN phải quản lý, đầu tư nguồn vốn một cách an toàn, hiệu quả, đảm bảo thanh khoản tốt để luôn sẵn sàng bảo vệ người gửi tiền.

Thời gian tới, công tác tái cơ cấu hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu cần được đẩy mạnh, bởi những tác động của dịch bệnh tới khả năng trả nợ của doanh nghiệp dẫn đến nguy cơ gia tăng nợ xấu tại các TCTD. Trong đó, hoạt động của các QTDND cần được tiếp tục giám sát chặt chẽ. Để QTDND hoạt động an toàn và hiệu quả hơn, cần sớm hoàn thiện quy chế quản lý và sử dụng quỹ, trong đó có cơ chế nộp phí tham gia quỹ và việc sử dụng quỹ phù hợp với thực tiễn, tăng cường tính công khai, minh bạch nhằm nâng cao khả năng hỗ trợ. Điều này có ý nghĩa khắc phục, vượt qua những khó khăn về tình hình tài chính, đảm bảo sự an toàn trong hoạt động của từng QTDND cũng như đối với toàn hệ thống. Cùng với đó, tăng cường đào tạo chuyên sâu đối với đội ngũ làm công tác kiểm tra nội bộ, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng quản lý, giám sát.

Bên cạnh vai trò quan trọng của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (NHNN), thì BHTGVN cũng là công cụ đắc lực của Chính phủ, NHNN trong sứ mệnh bảo vệ người gửi tiền, nâng cao niềm tin công chúng; BHTGVN đã góp phần duy trì sự ổn định, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống QTDND. BHTGVN thực hiện các hoạt động: Cấp Chứng nhận tham gia BHTG, thu phí BHTG, theo dõi, giám sát thường xuyên và kiểm tra định kỳ đối với toàn bộ các QTDND. Trong đó, nghiệp vụ giám sát tập trung vào việc phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của các quỹ; việc chấp hành các quy định về BHTG cũng như việc tuân thủ quy định về an toàn hoạt động ngân hàng; qua đó cảnh báo rủi ro, các sai phạm, yếu kém mà QTDND cần khắc phục và báo cáo, kiến nghị NHNN xử lý kịp thời. Đối với những QTDND có vấn đề, BHTGVN thực hiện giám sát chuyên sâu để nắm vững thực trạng và biến động của các loại tiền gửi, nhất là tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm, chủ động có giải pháp hoặc báo cáo, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền. Đồng thời, kiểm tra chuyên sâu về tiền gửi được bảo hiểm đối với QTDND nhằm kịp thời phát hiện sai phạm, từ đó đề xuất biện pháp xử lý, góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền cũng như phòng ngừa các hiện tượng gian lận, trục lợi BHTG.

Thực tế khẳng định công tác giám sát, kiểm tra thời gian qua của BHTGVN đã góp phần cùng với các cơ quan chức năng kiểm soát, phát hiện rủi ro sớm hơn để duy trì, bảo đảm hoạt động an toàn, lành mạnh của toàn hệ thống QTDND. Do đó, thời gian tới, cần củng cố, nâng cao hơn nữa vai trò của BHTGVN trong việc theo dõi, giám sát, đề xuất giải pháp đối với hoạt động của các QTDND.

Về phía cơ quan quản lý, cần nghiên cứu để trao thêm quyền hạn cho BHTGVN phù hợp quy định pháp luật và điều kiện Việt Nam, để tổ chức này ngày càng đảm nhận tốt hơn vai trò, trọng trách bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng và nền kinh tế.
 
Tài liệu tham khảo:

1. http://sbv.gov.vn

2. http://chinhphu.vn

 
Mai Anh (NHNN)
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
Nhận diện một số thách thức pháp lý trong chuyển đổi số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam
22/04/2024 200 lượt xem
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đang diễn ra trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hoạt động ngân hàng cũng không nằm ngoài sự chuyển đổi đó. Tại Việt Nam, những năm gần đây, ngành Ngân hàng luôn là một trong những ngành có tỉ lệ chuyển đổi số nhanh nhất.
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
17/04/2024 549 lượt xem
Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật để thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư trong nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế, hình ảnh của nước ta trên trường quốc tế.
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính -  Một số khuyến nghị cho Việt Nam
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính - Một số khuyến nghị cho Việt Nam
12/04/2024 1.000 lượt xem
Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia, góp phần thúc đẩy và mở rộng khả năng tiếp cận tài chính của dân số, qua đó khuyến khích tiết kiệm và đầu tư đối với hộ gia đình và doanh nghiệp, tạo cơ hội phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ, mở rộng khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm và thu nhập, góp phần hạn chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính.
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
16/03/2024 3.494 lượt xem
Năm 2024, kinh tế thế giới dự báo tiếp tục khó khăn dưới tác động của điều kiện tài chính thắt chặt, mặt bằng lãi suất còn cao, xung đột địa chính trị, rủi ro tài chính gia tăng, lạm phát có dấu hiệu chậm lại nhưng vẫn cao…; ở trong nước, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức do bối cảnh cầu thế giới, thương mại quốc tế chậm phục hồi, bảo hộ thương mại gia tăng; sản xuất, kinh doanh tiếp tục khó khăn, mức độ hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn tương đối thấp; những khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản vẫn chưa được xử lý căn cơ, đòi hỏi các cấp, bộ, ngành Trung ương và địa phương tiếp tục triển khai nhiều giải pháp tổng thể hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
15/03/2024 3.089 lượt xem
Ngày 07/11/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước, có hiệu lực thi hành từ ngày 22/12/2023.
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
14/03/2024 6.301 lượt xem
Giai đoạn từ năm 2022 đến nay, trước bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) liên tục tăng lãi suất, NHNN đã điều hành tỷ giá tương đối ổn định, đặc biệt là tỷ giá với các ngoại tệ như Đô la Mỹ, Euro và các ngoại tệ khác tại các quốc gia có quan hệ giao thương đáng kể với Việt Nam nhằm duy trì ổn định vĩ mô trong nước, hỗ trợ đầu tư, sản xuất phát triển.
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
13/03/2024 3.159 lượt xem
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân đối với Dự thảo Nghị định quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng (sau đây gọi tắt là Dự thảo Nghị định).
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
06/03/2024 3.233 lượt xem
Một trong những sứ mệnh của chuyển đổi số là phổ cập, cá nhân hóa dịch vụ số như giáo dục, y tế, ngân hàng để hướng tới người dân. Ngành Ngân hàng luôn phấn đấu tạo điều kiện thuận lợi cho người dân sử dụng dịch vụ trên môi trường điện tử, trong đó có hướng đến phổ cập tài chính tới vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
05/03/2024 8.627 lượt xem
Ngày 18/01/2024, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 với 15 chương, 210 điều. Luật Các TCTD năm 2024 đã bám sát quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước; khắc phục các vướng mắc, bất cập hiện tại; tham khảo thông lệ, kinh nghiệm quốc tế và phù hợp chiến lược phát triển ngành Ngân hàng. Xuất phát từ đó, bài viết tập trung làm rõ những điểm mới, nổi bật của Luật này.
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/02/2024 3.183 lượt xem
Trải qua hơn 10 năm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, công tác thống kê tiền tệ phục vụ điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có nhiều bước tiến đáng kể.
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
24/02/2024 4.273 lượt xem
Năm 2023 vừa qua đã chứng kiến những biến động mạnh mẽ trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) trên thế giới, nổi bật là việc các ngân hàng trung ương (NHTW) liên tục tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát.
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
13/02/2024 3.150 lượt xem
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các nước đã thừa nhận sự cần thiết của chính sách an toàn vĩ mô (ATVM) trong ổn định tài chính và đặt chính sách ATVM vào vị trí trung tâm của sự tương tác giữa các chính sách kinh tế vĩ mô với chính sách an toàn vi mô.
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
11/02/2024 3.952 lượt xem
Nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2023 được triển khai trong bối cảnh tình hình thế giới phát sinh nhiều biến động, diễn biến phức tạp, khó dự báo. Căng thẳng địa chính trị, tranh chấp giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, xung đột giữa Nga - Ukraine và Israel - Hamas diễn biến bất ngờ, lạm phát và giá nhiên liệu tăng cao khiến đà phục hồi của kinh tế thế giới chậm lại.
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
07/02/2024 3.448 lượt xem
Thời gian qua, tín dụng tiêu dùng phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 20%/năm, từng bước góp phần giúp người dân, đặc biệt là những người yếu thế tiếp cận được các dòng vốn chính thức; hạn chế tình trạng tín dụng đen.
Bài toán tín dụng năm 2023 và lời giải cho năm 2024
Bài toán tín dụng năm 2023 và lời giải cho năm 2024
31/01/2024 3.761 lượt xem
Năm 2023 đã đi qua với nhiều câu chuyện kinh tế nổi bật và một trong những vấn đề thu hút được sự quan tâm rất lớn trong hoạt động của ngành Ngân hàng là vấn đề tăng trưởng tín dụng.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?