Mục tiêu lạm phát tối ưu: Ý kiến ​​của 600 nhà kinh tế
16/11/2022 5.227 lượt xem
Tóm tắt

Trong một cuộc khảo sát với hơn 600 nhà kinh tế, hầu hết những người được hỏi muốn Ngân hàng Trung ương (NHTW) của họ có một mục tiêu lạm phát rõ ràng. Gần một nửa đáp viên muốn NHTW giữ mục tiêu hiện tại. Hai phần ba số còn lại muốn tăng mục tiêu, với mức tăng bình quân một điểm phần trăm. Trong một kịch bản giả định, NHTW không có tiền sử lạm phát mục tiêu, thêm 12% số người được hỏi sẽ thích một mục tiêu khác (thường cao hơn) so với mục tiêu hiện tại. Kết quả này cho thấy rằng cái giá cho việc thay đổi mục tiêu hiện tại khiến một số đáp viên không muốn thay đổi mục tiêu thực tế. Đối với những đáp viên có lo ngại về sự tín nhiệm của NHTW, họ sẽ ít có khả năng ủng hộ việc tăng mục tiêu. Ngược lại, quan điểm tăng mục tiêu lạm phát có nhiều khả năng xuất phát từ những người lo ngại về mức giới hạn dưới bằng 0 đối với lãi suất danh nghĩa.

Đặt vấn đề

Hơn một nửa các nhà kinh tế hàng đầu thế giới tin rằng nên duy trì các mục tiêu lạm phát hiện có của các NHTW, hơn là thay đổi chúng. Một cuộc khảo sát với 600 nhà kinh tế cho thấy cái giá phải trả cho sự thay đổi này là làm suy giảm niềm tin vào các NHTW.

Câu hỏi then chốt của hệ thống lạm phát mục tiêu là: Mục tiêu lạm phát phải ở mức nào? Theo các cơ sở lý thuyết và thực tiễn, NHTW ở các nước phát triển đã thiết lập mức mục tiêu của lạm phát là 2%. Tuy nhiên, hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu - những năm lạm phát thấp và việc đạt mức giới hạn dưới hiệu lực (Effective lower bound, ELB)1, hạn chế khả năng cắt giảm lãi suất của các NHTW, đã dấy lên nghi ngờ về sự đồng thuận này. Một trong những đề xuất có thể làm giảm khả năng tái diễn vấn đề này trong tương lai là ý tưởng tăng mục tiêu lạm phát (Ball, L, (2013) và Krugman, P, (2014)).

Một nghiên cứu mới của Ambrocio và các cộng sự (2022) góp phần vào cuộc tranh luận này, có sử dụng phương pháp khảo sát ý kiến chuyên gia về mục tiêu lạm phát và các vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ, với phản hồi từ hơn 600 nhà kinh tế trên toàn thế giới. Mẫu khảo sát được thực hiện vào cuối năm 2020 bao gồm 10% các nhà nghiên cứu hàng đầu trong bảng xếp hạng RePEc (Research Papers in Economics), cũng như các nhà nghiên cứu liên quan trực tiếp từ Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Kinh tế châu Âu (CEPR) và Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia Hoa Kỳ (NBER). Phần lớn những người tham gia khảo sát đến từ Mỹ   (đạt 39%) và Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Khu vực đồng Euro) là 26%.

Các kết luận chính của nghiên cứu như sau:

(i) Hầu hết những người được hỏi muốn NHTW có các mục tiêu bổ sung ngoài mục tiêu duy trì ổn định giá cả; (ii) Phần lớn những người ủng hộ lạm phát mục tiêu ủng hộ việc duy trì giá trị hiện tại của mục tiêu. Đồng thời, trong số những người ủng hộ việc thay đổi mục tiêu, có 2/3 ủng hộ việc nâng cao mục tiêu đó; (iii) Lập luận chủ yếu ủng hộ việc duy trì mức mục tiêu hiện tại có liên quan đến một thực tế là, cái giá phải trả cho việc thay đổi nó sẽ làm giảm niềm tin vào các NHTW và lập luận chính ủng hộ việc tăng mục tiêu lạm phát là lo ngại về việc đạt ELB; (iv) Chỉ có 25% số người được hỏi ủng hộ việc tăng mục tiêu lạm phát sau khi lãi suất thực cân bằng giảm liên tục (r*: mức lãi suất đảm bảo nền kinh tế phát triển ở mức tiềm năng và lạm phát đạt mức mục tiêu của NHTW).

Mục tiêu của NHTW

Sau một thời kỳ lạm phát cao trong những năm 1970, trọng tâm của chính sách tiền tệ đã chuyển hướng đáng kể theo hướng duy trì ổn định giá cả. Tuy nhiên, sau cuộc khủng hoảng năm 2008 - giai đoạn giá cả tương đối ổn định nhưng mức độ bất ổn tài chính cao và biến động thất nghiệp lớn - một số nhà phê bình đã đặt câu hỏi về sự cân bằng phù hợp giữa ổn định giá cả và các mục tiêu khác của chính sách tiền tệ.

Trong bối cảnh đó, nghiên cứu đã đề nghị những người tham gia khảo sát nêu quan điểm ​​của họ về các mục tiêu cần có của NHTW trong lĩnh vực chính sách tiền tệ. Nhìn chung, việc ủng hộ các NHTW có những mục tiêu khác ngoài ổn định giá là rõ ràng. “Ổn định giá và (các) mục tiêu khác có trọng số bằng nhau” nhận được sự ủng hộ rộng rãi nhất (48%), tiếp theo là “Ổn định giá và (các) mục tiêu phụ” (38%). Chỉ 14% số người được hỏi ủng hộ mục tiêu duy nhất là ổn định giá cả. Trong số những người giải thích thêm về quan điểm của họ, ba mục tiêu phổ biến nhất là: (i) Việc làm, với nhiều hình thái khác nhau như “thất nghiệp”, “việc làm” và “toàn dụng nhân công”; (ii) Ổn định tài chính; và (iii) Tăng trưởng kinh tế/sản lượng (Biểu đồ 1).

Nhiệm vụ kép theo kiểu của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ - Fed (Fed thực hiện hai mục tiêu cùng một lúc - duy trì sự ổn định giá cả và việc làm ổn định tối đa), có sự ủng hộ cao hơn đáng kể trong số những người được hỏi tại Mỹ. Ngược lại, những người được hỏi ở châu Âu (nhiệm vụ của NHTW châu Âu chỉ giới hạn ở một mục tiêu chính - duy trì sự ổn định giá cả) được chia đều thành những người ủng hộ ECB có thêm một mục tiêu phụ và những người ủng hộ một mục tiêu kép. 
 
Biểu đồ 1: Các mục tiêu của NHTW

 
Nguồn: Ambrocio, G., A., Ferrero, E. Jokivuolle and K. Ristolainen, "What should the inflation target be? Views from 600 economists", CEPR Discussion Paper 17289 and Bank of Finland Research Discussion Paper 7/2022

Để trả lời câu hỏi NHTW nên tập trung vào chỉ số giá nào trong số các chỉ số giá hiện tại khi điều hành chính sách tiền tệ, nghiên cứu cho thấy số phiếu ủng hộ ý tưởng sử dụng chỉ số giá tiêu dùng chung (CPI) và chỉ số giá tiêu dùng cơ bản (CPI không bao gồm giá thực phẩm và năng lượng) - lần lượt là 25% và 27%.

Những người châu Âu được hỏi ưa thích chỉ số mà NHTW châu Âu (ECB) hiện đang sử dụng - chỉ số CPI tổng thể (Chỉ số giá tiêu dùng đã cân đối, Harmonised Index of Consumer Prices - HICP): 33% các nhà kinh tế châu Âu được khảo sát đã bỏ phiếu cho chỉ số này so với 25% trong toàn bộ mẫu và chỉ 11% trong số các nhà kinh tế Mỹ. Những người tham gia cuộc khảo sát ở Mỹ thích sử dụng chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân cơ bản (chỉ số PCE cơ bản, một trong những thước đo lạm phát được Fed sử dụng)2. Số lượng tối đa các nhà kinh tế Hoa Kỳ ủng hộ việc sử dụng chỉ số này (24% so với 14% người ủng hộ việc sử dụng chỉ số này làm mục tiêu trong số tất cả những người tham gia khảo sát và 11% người ủng hộ ở châu Âu).

Do đó, không giống như các nhà kinh tế châu Âu, những người được hỏi ở Mỹ muốn NHTW của họ nhắm mục tiêu vào lạm phát cơ bản hơn là lạm phát tổng thể.

Mục tiêu lạm phát

Gần 80% số người được hỏi ủng hộ việc NHTW có mục tiêu lạm phát, mặc dù thực tế là hầu hết những người tham gia khảo sát (96%) sống ở các quốc gia mà NHTW thiết lập mục tiêu lạm phát.
 
Biểu đồ 2: Cần thay đổi mục tiêu lạm phát như thế nào?


Nguồn: Ambrocio, G., A., Ferrero, E. Jokivuolle and K. Ristolainen, "What should the inflation target be? Views from 600 economists", CEPR Discussion Paper 17289 and Bank of Finland Research Discussion Paper 7/2022

Biểu đồ 2 cho thấy sự phân bố những thay đổi ưa thích trong mục tiêu lạm phát. Trong số những người được hỏi từ các quốc gia thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu, hơn một nửa (54%) ủng hộ mức mục tiêu hiện tại của NHTW, khoảng 30% thích mục tiêu cao hơn, trong khi 16% thích mục tiêu thấp hơn. Mức thay đổi ưa thích trung bình (median preferred change) là một điểm phần trăm theo cả hai hướng (cả hướng lên và hướng xuống). Mức tăng (giảm) mục tiêu ưu thích tối đa là 3 (2) điểm phần trăm. Đáng chú ý, 6% số người được hỏi thích mục tiêu giảm 2 điểm phần trăm. Nhóm này tương ứng với những người ủng hộ mục tiêu lạm phát bằng 0 và đến từ các quốc gia có mục tiêu lạm phát hiện tại là 2%.

Biểu đồ 2 cũng nêu bật những khác biệt giữa Khu vực đồng Euro và Mỹ. Tỷ lệ những người thích giữ mục tiêu hiện tại nhỏ hơn đáng kể ở Mỹ (45%) so với ở Khu vực đồng tiền chung châu Âu (gần 56%). Sự khác biệt về tỷ trọng giữa hai khu vực có ý nghĩa thống kê ở mức độ tin cậy 10%; sự khác biệt phát sinh từ những người muốn hạ thấp mục tiêu hiện tại. Tỷ lệ nhóm này gần 21% ở Mỹ trong khi chỉ 9% ở Khu vực đồng Euro (Ambrocio và các cộng sự, 2022).

Nhân tố nào chi phối mục tiêu lạm phát tối ưu?

Để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mục tiêu lạm phát tối ưu, nghiên cứu của Ambrocio và các cộng sự (2022) đề nghị các đáp viên “xếp hạng” những nhân tố xác định mức lạm phát mục tiêu, theo tầm quan trọng, gợi ý bảy trong số các nhân tố được đề cập trong nhiều tài liệu nghiên cứu của Friedman, M., (1969) và Stephanie Schmitt-Grohe, Martin Uribe (2010) :

- Mức cân bằng của lãi suất thực;

- Sự cứng nhắc của giá cả và tiền lương;

- Những khó khăn trong đo lường lạm phát;

- ELB đối với lãi suất chính sách;

- Hiệu quả của các biện pháp chính sách tiền tệ phi truyền thống;

- Hiệu quả của chính sách tài khóa;

- Ổn định tài chính.
 
Ngoài ra, các đáp viên có thể chỉ ra các nhân tố quan trọng khác, theo quan điểm của họ. Sau đó, tính toán điểm xếp hạng trung bình của ba nhóm đáp viên, bao gồm: (1) Những người ủng hộ việc duy trì mục tiêu lạm phát hiện tại; (2) Những người ủng hộ việc hạ thấp mục tiêu lạm phát; và (3) Những người ủng hộ việc nâng cao mục tiêu lạm phát.
 
Bảng 1: Các nhân tố chi phối mục tiêu lạm phát


Các nhân tố được xếp hạng theo mức độ quan trọng: “Không quan trọng” = 1; “Quan trọng không đáng kể” = 2; “Quan trọng vừa phải” = 3; “Khá quan trọng” = 4; “Quan trọng nhất” = 5.
 
Nguồn: Ambrocio, G., A., Ferrero, E. Jokivuolle and K. Ristolainen, "What should the inflation target be? Views from 600 economists", CEPR Discussion Paper 17289 and Bank of Finland Research Discussion Paper 7/2022
 
Bảng 1 tóm tắt kết quả bằng cách sử dụng mã hóa các cấp độ quan trọng trên thang điểm từ 1 (không quan trọng) đến 5 (quan trọng nhất). Tất cả bảy yếu tố được liệt kê đều nhận được điểm trung bình từ 3 đến 4, tức là, nằm trong khoảng từ “quan trọng vừa phải” đến “khá quan trọng”.

Các đáp viên Khu vực đồng Euro (cột EMU) có xu hướng cho điểm về mức độ quan trọng cao hơn một chút so với đáp viên ở Hoa Kỳ. Các đáp viên coi “Ổn định tài chính" là nhân tố quan trọng nhất, chi phối việc xác định mục tiêu lạm phát, cả về mẫu tổng thể cũng như trong các khu vực địa lý khác.

Hai nhân tố tiếp theo xếp theo mức độ quan trọng, đó là “Giới hạn dưới hiệu lực (ELB) đối với lãi suất chính sách” và “Mức cân bằng của lãi suất thực”. Trong Khu vực đồng Euro, các nhân tố “Giới hạn dưới hiệu lực (ELB) đối với lãi suất chính sách” và “Ổn định tài chính" có điểm trung bình đều bằng 3,81, trong khi nhân tố “Hiệu quả của các biện pháp chính sách tiền tệ phi truyền thống” xếp hạng cao hơn một chút so với “Mức cân bằng của lãi suất thực”.

Trong Khu vực đồng Euro và Mỹ, nhân tố “Hiệu quả của các biện pháp chính sách tiền tệ phi truyền thống” đều có điểm trung bình cao hơn nhân tố “Hiệu quả của chính sách tài khóa”.

Hai nhân tố “Sự cứng nhắc của giá cả và tiền lương” và “Những khó khăn trong đo lường lạm phát” có mức độ quan trọng thấp nhất trong mẫu tổng thể cũng như các nhóm khu vực địa lý.

Lãi suất thực cân bằng

Một yếu tố chính làm các nhà nghiên cứu quan tâm trở lại sự lựa chọn mục tiêu lạm phát tối ưu là cuộc thảo luận về sự sụt giảm dài hạn của lãi suất thực cân bằng (r*), có liên quan chặt chẽ đến các biến cố đạt đến giới hạn dưới hiệu lực.

Ngay cả sự gia tăng mạnh mẽ của lạm phát hiện nay cũng không làm cho một số nhà quan sát thay đổi cơ bản quan điểm của họ về xu hướng giảm dài hạn của lãi suất cân bằng.

Tại thời điểm khảo sát, mức lãi suất cân bằng theo đánh giá của các đáp viên khoảng 0,6%. Nhưng chỉ có 25% số người tham gia khảo sát ủng hộ việc tăng mục tiêu lạm phát để đáp ứng giả thuyết giảm ổn định lãi suất cân bằng một điểm phần trăm, số đáp viên không có ý kiến ​​về cách thức hành động trong trường hợp này có cùng tỷ lệ trên, trong khi 34% trong tình huống như vậy, họ sẽ không thay đổi mục tiêu lạm phát, và 16% số người được hỏi khác tin rằng nếu lãi suất cân bằng giảm một điểm phần trăm thì mục tiêu lạm phát cũng nên được hạ xuống. Tất cả số liệu thống kê khảo sát nêu trên là bằng chứng bổ sung cho thấy nhiều chuyên gia dự đoán chi phí đáng kể trong việc thay đổi mục tiêu lạm phát.

Nợ công và lạm phát

Mức nợ công cao ở nhiều khu vực trên thế giới cũng đã khơi dậy một cuộc thảo luận khác - về mối quan hệ tương tác giữa chính sách tiền tệ và tài khóa. Các biện pháp chính sách được thực hiện để đối phó với cuộc khủng hoảng đại dịch Covid-19 đã khiến mức nợ tăng thêm và làm trầm trọng thêm vấn đề này. Pedro Teles từ Ngân hàng Bồ Đào Nha và Orest Tristani từ ECB đã chỉ ra, việc tài trợ cho các cú sốc tài khóa lớn (tăng chi tiêu chính phủ) có thể có tác động đến mức lạm phát tối ưu - được dự tính sẽ tăng dần dần nhưng dài hạn.

Dựa trên những phát hiện này, nghiên cứu của Ambrocio và các cộng sự (2022) khảo sát liệu ưu tiên nâng mục tiêu lạm phát của những đáp viên có liên quan đến mức tỷ lệ nợ công trên GDP ở quốc gia nơi họ cư trú hay không và nhận thấy rằng thực tế là đúng như vậy. Một giải thích cho điều này là mức nợ cao hơn có thể yêu cầu mục tiêu lạm phát cao hơn để giảm chi phí nợ thực.

Mặc dù lạm phát cao gần đây có thể bỏ qua cuộc thảo luận về việc thay đổi mục tiêu lạm phát, nhưng kết quả nghiên cứu của Ambrocio và các cộng sự (2022) sẽ hữu ích trong tư duy về những đánh đổi liên quan đến sự thay đổi như vậy trong tương lai.
 
1 ELB hoặc giới hạn dưới bằng 0 (zero lower bound, ZLB) là mức lãi suất cực kỳ thấp trong nền kinh tế, khi đạt đến mức đó, hiệu quả của các công cụ chính sách tiền tệ truyền thống sẽ yếu đi và việc cắt giảm lãi suất tiếp theo thậm chí có thể gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế.
 2 Chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân cơ bản (core Personal Consumption Expenditure Price Index) đo lường sự thay đổi trong giá cả hàng hóa và dịch vụ được người tiêu dùng thu mua với mục đích tiêu dùng ngoại trừ thực phẩm và năng lượng.

 
Tài liệu tham khảo:

1. Ambrocio, G., A., Ferrero, E. Jokivuolle and K. Ristolainen,"What should the inflation target be? Views from 600 economists",, CEPR Discussion Paper 17289 and Bank of Finland Research Discussion Paper 7/2022.
2. Ball, L, "The case for 4% inflation", Central Bank Review 13, 2013.
3. Blanchard, O, G Dell'Ariccia and P Mauro, “Rethinking macroeconomic policy”, Staff Position Note 10/03, IMF, 2010.
4. Friedman, M., “The Optimum Quality of Money”. Mcmillan, 1969.
5. Krugman, P, "Inflation targets reconsidered", Unpublished, 2014.
6. Pedro Teles, Oreste Tristani, “The Monetary Financing of Large Fiscal Shock”, ECB, CEPR, September 2021.
7. Stephanie Schmitt-Grohe, Martin Uribe, “The Optimal Rate of Inflation”, NBER Working Papers, June 2010.

TS. Nguyễn Đình Trung
Trường Đại học Hòa Bình
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
Thực thi chính sách tín dụng nông thôn - Kinh nghiệm của Brazil
16/04/2024 499 lượt xem
Chính sách tín dụng nông thôn (tín dụng nông thôn) ở Brazil là các chương trình cho vay nhằm hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, năng suất và đầu tư; nâng cao thu nhập của các trang trại và doanh nghiệp; nâng cao mức sống của người dân nông thôn.
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bền vững: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị đối với Việt Nam
04/04/2024 1.911 lượt xem
Bài viết phân tích, đánh giá một số kinh nghiệm quốc tế về cơ cấu thu NSNN bền vững thông qua bốn loại thuế, gồm: Thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT, thuế TTĐB. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số khuyến nghị để hoàn thiện cơ cấu thu NSNN bền vững, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam.
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
21/03/2024 3.793 lượt xem
Hệ thống hưu trí là một bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội với hai hệ thống hưu trí bắt buộc và hệ thống hưu trí tự nguyện. Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp ở các nước trên thế giới rất quan trọng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
19/03/2024 7.640 lượt xem
Năm 2023, kinh tế thế giới phục hồi yếu và không đồng đều giữa các nền kinh tế chủ chốt. Hoạt động sản xuất, từ sản lượng công nghiệp đến hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế đều giảm.
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
07/03/2024 5.380 lượt xem
Những thay đổi về nhân khẩu học toàn cầu, đặc biệt là xu hướng già hóa dân số đang đặt ra những thách thức và rủi ro lớn cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
03/03/2024 7.462 lượt xem
Sau gần hai năm thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát và đưa lạm phát của nền kinh tế Hoa Kỳ về gần lạm phát mục tiêu là 2%, trong năm 2024, dự kiến Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ có những thay đổi lớn trong điều hành chính sách tiền tệ.
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
15/02/2024 6.187 lượt xem
Kiểm toán nội bộ có vai trò quan trọng trong việc tăng cường và bảo vệ giá trị của tổ chức thông qua chức năng cung cấp sự đảm bảo, tư vấn khách quan, chuyên sâu và theo định hướng rủi ro.
Ngân hàng Mizuho Việt Nam góp phần thúc đẩy hợp tác toàn diện kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
Ngân hàng Mizuho Việt Nam góp phần thúc đẩy hợp tác toàn diện kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
13/02/2024 6.098 lượt xem
Nhìn lại năm 2023, trên khắp Việt Nam và Nhật Bản đã diễn ra nhiều sự kiện kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Tháng 12/2023, Mizuho đã hỗ trợ Diễn đàn kinh tế Nhật Bản - Việt Nam tại Tokyo cùng với Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và các định chế tài chính khác.
Triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2024
Triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2024
26/01/2024 7.404 lượt xem
Sau những cú sốc mạnh trong năm 2022, hoạt động kinh tế toàn cầu có dấu hiệu ổn định vào đầu năm 2023.
Kinh nghiệm ứng dụng trí tuệ nhân tạo và tự động hóa quy trình bằng robot trong lĩnh vực ngân hàng trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam
Kinh nghiệm ứng dụng trí tuệ nhân tạo và tự động hóa quy trình bằng robot trong lĩnh vực ngân hàng trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam
15/01/2024 7.839 lượt xem
Chuyển đổi số và sự bùng nổ công nghệ có ảnh hưởng lớn đến hành vi của khách hàng và hoạt động kinh doanh. Xu hướng thay đổi này dẫn đến quá trình số hóa trong các lĩnh vực như sản xuất, chuỗi cung ứng, tài chính và các dịch vụ phụ trợ khác.
Thẩm quyền để xử lí ngân hàng đang đổ vỡ một cách nhanh chóng và kịp thời - Nhìn từ kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
Thẩm quyền để xử lí ngân hàng đang đổ vỡ một cách nhanh chóng và kịp thời - Nhìn từ kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
05/01/2024 8.636 lượt xem
Trong năm vừa qua, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều vụ sụp đổ của những ông lớn trong lĩnh vực ngân hàng, điều này dấy lên hồi chuông cảnh báo về tính chất dễ đổ vỡ của ngân hàng. Việc một ngân hàng đổ vỡ thể hiện kỉ luật thị trường đối với những ngân hàng có hoạt động kinh doanh thiếu an toàn, lành mạnh nhưng lại tạo ra nhiều hệ lụy cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến niềm tin của công chúng và người gửi tiền.
Phân tích lợi ích và rủi ro của tiền kĩ thuật số Ngân hàng Trung ương
Phân tích lợi ích và rủi ro của tiền kĩ thuật số Ngân hàng Trung ương
21/12/2023 9.997 lượt xem
Sự chuyển dịch nhanh chóng của hệ thống tiền tệ số toàn cầu đã khiến chính phủ các nước có phần lúng túng trong việc thích nghi với sự thay đổi mạnh mẽ trong hành vi chi tiêu và đầu tư của người dân.
Hợp tác của Trung Quốc với các nước châu Phi trong lĩnh vực ngân hàng và một số kinh nghiệm cho Việt Nam
Hợp tác của Trung Quốc với các nước châu Phi trong lĩnh vực ngân hàng và một số kinh nghiệm cho Việt Nam
20/12/2023 9.228 lượt xem
Trung Quốc là đối tác kinh tế, thương mại và đầu tư lớn nhất của châu Phi trong thời gian qua và sẽ tiếp tục trong thời gian tới. Bài viết này tóm lược sự phát triển quan hệ thương mại và đầu tư của Trung Quốc với các nước châu Phi trong thời gian hơn một thập kỉ vừa qua và việc Trung Quốc sử dụng lĩnh vực ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển đó.
Thực tiễn sử dụng tiền mã hóa trong tài trợ cuộc xung đột Nga - Ukraine và hàm ý cho Việt Nam
Thực tiễn sử dụng tiền mã hóa trong tài trợ cuộc xung đột Nga - Ukraine và hàm ý cho Việt Nam
16/11/2023 10.350 lượt xem
Bài viết khái quát quá trình triển khai huy động dòng vốn toàn cầu thông qua tiền mã hóa của Chính phủ Ukraine và Liên bang Nga; từ đó, đánh giá hiệu quả thực tiễn của việc sử dụng tiền mã hóa trong thanh toán xuyên biên giới, nguy cơ sử dụng tiền mã hóa trong các hoạt động rửa tiền, khủng bố và đưa ra hàm ý cho Việt Nam.
Quy định về hoạt động huy động vốn cộng đồng theo hình thức cổ phần tại Malaysia - Một số gợi mở cho Việt Nam
Quy định về hoạt động huy động vốn cộng đồng theo hình thức cổ phần tại Malaysia - Một số gợi mở cho Việt Nam
06/11/2023 10.191 lượt xem
Hoạt động huy động vốn cộng đồng đã trở nên phổ biến sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, phương thức này đã phát triển nhanh chóng ở nhiều nước trên thế giới. Trong đó, hoạt động huy động vốn theo hình thức cổ phần (Equity - based Crowdfunding - ECF) là hình thức gọi vốn được các doanh nghiệp trong giai đoạn khởi đầu, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo rất ưa chuộng. Với ECF, các doanh nghiệp có thể huy động vốn từ cộng đồng thông qua một nền tảng trên Internet.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.800

83.800

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.800

83.800

Vàng SJC 5c

81.800

83.820

Vàng nhẫn 9999

74.800

76.700

Vàng nữ trang 9999

74.700

76.000


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,100 25,440 26,252 27,714 30,724 32,055 157.77 167.11
BIDV 25,130 25,440 26,393 27,618 30,763 32,067 158.12 166.59
VietinBank 25,090 25,443 26,504 27,799 31,154 32,164 160.64 168.59
Agribank 25,100 25,440 26,325 27,607 30,757 31,897 159.58 167.50
Eximbank 25,040 25,440 26,425 27,239 30,914 31,866 160.82 165.77
ACB 25,110 25,442 26,596 27,279 31,230 31,905 161.07 166.37
Sacombank 25,170 25,420 26,701 27,261 31,332 31,835 162.03 167.05
Techcombank 25,192 25,442 26,362 27,707 30,760 32,094 157.36 169.78
LPBank 24,960 25,440 26,088 27,611 30,970 31,913 158.36 169.76
DongA Bank 25,170 25,440 26,570 27,260 31,080 31,940 159.20 166.40
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?