Mức độ tổn thương và khả năng phục hồi của kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh sau đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ 4
06/10/2021 6.943 lượt xem
Tăng trưởng kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh phụ thuộc chủ yếu vào thương mại - dịch vụ và công nghiệp - xây dựng. Khu vực thương mại - dịch vụ của Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp lớn nhất vào tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) (trên 60%) và duy trì xu hướng tăng trong những năm gần đây, ngay cả giai đoạn chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 từ năm 2020 và 6 tháng đầu năm 2021...
 

1. Cấu trúc kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh trước làn sóng dịch Covid-19 lần thứ 4
 
Tăng trưởng kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh phụ thuộc chủ yếu vào thương mại - dịch vụ và công nghiệp - xây dựng. Khu vực thương mại - dịch vụ của Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp lớn nhất vào tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) (trên 60%) và duy trì xu hướng tăng trong những năm gần đây, ngay cả giai đoạn chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 từ năm 2020 và 6 tháng đầu năm 2021. Trong 5,46% tăng trưởng GRDP sáu tháng đầu năm 2021 có 3,66% đến từ thương mại - dịch vụ, đây cũng là lĩnh vực có sức bật cao so với các ngành khác trong các đợt dịch trước đây. Khu vực công nghiệp - xây dựng của Thành phố Hồ Chí Minh đứng thứ hai, đóng góp trên 24% GRDP Thành phố. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò chủ đạo cả xuất khẩu lẫn nhập khẩu, chiếm tỷ trọng 69,29% tổng kim ngạch xuất khẩu - không tính xuất khẩu dầu thô; và 49,06% tổng kim ngạch nhập khẩu. Ở nửa đầu năm 2021, khu vực này đã được xem là động lực chính trong tăng trưởng xuất, nhập khẩu của Thành phố với kim ngạch xuất khẩu tăng 6,2% và nhập khẩu tăng 12,2% so cùng kỳ năm 2020. Tương ứng, đóng góp chính vào ngân sách Thành phố là từ thu nội địa (64% đến 68%), thu từ xuất nhập khẩu góp 30 - 31% và khoảng 3,2% thu từ dầu thô. 
 
Cấu trúc trụ lực này duy trì ổn định ngay cả sau làn sóng dịch Covid-19 lần thứ 3. Sang 6 tháng đầu năm 2021, tăng trưởng vẫn diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các ngành trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, đạt 5,46% - tăng gấp ba lần so với 6 tháng đầu năm 2020. Quý I/2021 và Quý II/2021, nền kinh tế Thành phố đã phục hồi ngoạn mục sau khó khăn trong năm 2020. Đúng như nhận định của nhóm nghiên cứu: “Sau tình trạng suy thoái sâu sẽ là sự phục hồi mạnh mẽ, là đặc điểm chính của thành phố năng động và còn nhiều tiềm năng phát triển như Thành phố Hồ Chí Minh”. Tổng thu ngân sách được cập nhật đến 7 tháng đầu năm 2021 rất cao, đã đạt được 66,67% nhiệm vụ thu cả năm (365.000 tỷ đồng). GRDP đạt 680.328 tỷ đồng, là mức giá trị tạo thành chưa từng có trước đó. Thế nhưng, làn sóng dịch Covid-19 lần thứ 4 đã nhanh chóng gây nên sự sụt giảm nghiêm  trọng ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế, gây ra nhiều tổn thương nặng nề.
 
2. Mức độ tổn thương do làn sóng dịch Covid-19 lần thứ 4
 
Những tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19 xuất hiện sớm ở một số ngành từ tháng 5/2021, bắt đầu lan rộng trong tháng 6/2021. Tác động xấu nhất của dịch bệnh Covid-19 đã bộc lộ rõ vào tháng 8/2021 và tiếp tục kéo dài đến nửa đầu tháng 9/2021. 
 
Tháng 7/2021 ghi nhận tổn thương nghiêm trọng nhất xảy ra ở ngành công nghiệp, thương mại - dịch vụ. Tất cả 10 ngành sản xuất công nghiệp chế biến đều sụt giảm nghiêm trọng. So với cùng kỳ năm 2020, cả 10 ngành đều có tăng trưởng âm. Mà mảng dịch vụ tổn thương nghiêm trọng ngay khi giãn cách. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 7/2021 giảm 27,72% so với tháng 6/2021; tương đương giảm 42,25% so với năm 2020. Các ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống, lữ hành là hai ngành chịu tổn thất nặng nề nhất. Trong đó, doanh thu từ dịch vụ lữ hành gần như về 0 và hoàn toàn đóng băng trong suốt hơn nửa năm qua mà chưa có tín hiệu phục hồi. Đóng góp của dịch vụ lưu trú và ăn uống vào tổng doanh thu ngành rất khiêm tốn, đặc biệt lao dốc trong tháng 6/2021 và tháng 7/2021 khi thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19 theo Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ (Chỉ thị 16) và Chỉ thị 16+ ở mức cao hơn về giãn cách cùng quy định phong tỏa nhiều khu vực. 
 
Hoạt động vận tải hàng không chịu khủng hoảng nặng nề nhất vì tốc độ tăng trưởng của hoạt động vận tải hành khách và vận tải hàng hóa liên tiếp lao dốc qua từng tháng. Tính đến tháng 6/2021, tỷ lệ này đã rời khỏi mốc -90% và có khả năng tiếp tục giảm. Đường bộ là phương tiện vận tải có kết quả tương đối khả quan so với các phương tiện khác khi tốc độ tăng trưởng là 1,60% và -2,10% trong tháng 5/2021 lần lượt đối với vận tải hành khách và vận tải hàng hóa.
 
Xuất nhập khẩu chịu ảnh hưởng nặng nề. Toàn bộ các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng tiêu cực do dịch Covid-19. Sự sụt giảm nghiêm trọng xuất hiện từ tháng 6/2021 và tiếp tục nặng nề hơn trong tháng 7/2021, kéo theo nhiều lệ lụy. Thu ngân sách Nhà nước từ hoạt động xuất nhập khẩu giảm nhanh, chỉ đạt trung bình 200 tỷ đồng so với mức trung bình 540 tỷ đồng mỗi ngày ở thời kỳ trước. Xuất khẩu dầu thô giảm đến 58% doanh số. Xuất khẩu điện tử, máy tính và linh kiện, là mặt hàng duy nhất có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD mỗi tháng, đã sụt giảm gần ¼ doanh số; tiềm ẩn nguy cơ đối tác xuất khẩu hủy đơn khi doanh nghiệp không đảm bảo được tiến độ giao hàng, hệ lụy có thể kéo dài đến hết năm 2021, qua năm 2022. 
 
Hoạt động nhập khẩu giảm mạnh mức 30 - 40% ở mọi mặt hàng, bắt đầu từ tháng 6/2021 và nghiêm trọng hơn vào tháng 7/2021, ngược hoàn toàn với sự gia tăng mạnh mẽ trong tháng 5/2021 nhờ sự mở rộng của lĩnh vực sản xuất đã thúc đẩy nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu đầu vào. Chỉ riêng có mặt hàng máy vi tính, linh kiện sản xuất sản phẩm điện tử được nhập khẩu mạnh trong tháng 7/2021, tăng 43,39% so với tháng 6 về số tương đối, tương ứng tăng gần 1 tỷ USD về số tuyệt đối. Đây là mặt hàng duy nhất có kim ngạch xuất khẩu vượt trên 1 tỷ USD mỗi tháng và chiếm xấp xỉ 35% tổng kim ngạch nhập khẩu. Hàng hóa nhập khẩu sụt giảm vì nhiều nguyên nhân, từ sản xuất bị ngưng lại, do chuỗi logistics bị gián đoạn, nhưng tập trung nhiều ở lý do khủng hoảng thiếu container làm nghẽn chuỗi cung ứng logistics quốc tế. Các cảng ở Bờ Tây - Mỹ và ở Quảng Đông - Trung Quốc đã trải qua vấn đề này kéo dài hàng tháng và đây cũng đang là mối nguy tại các cụm cảng ở Thành phố Hồ Chí Minh. Việc nhập khẩu khó khăn nhưng hàng về đến cảng không được giải phóng do chuỗi logistics bị hạn chế gây nên tình trạng tồn ứ tại cảng, kéo theo hàng loạt hệ lụy. Điển hình tại cảng Cát Lát, hàng nhập tồn hàng chục nghìn container chưa được giải phóng, trong đó 10% đã tồn kéo dài trên 90 ngày. Dịch vụ vận tải đối mặt với tình trạng hàng về không có điểm hạ container, thiếu container rỗng phục vụ cho hàng xuất. Hệ lụy này như vòng xoáy sụt giảm mọi phương diện.
 
Tình hình xấu đi rất nhiều trong tháng 8/2021, doanh số thương mại - dịch vụ chỉ  còn 35.500 tỷ đồng, chưa bằng 30% doanh thu hàng tháng trong điều kiện bình thường. Ngành công nghiệp giảm sâu 22,4% so với tháng 7/2021, nghiêm trọng nhất ở sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học, dệt, sản xuất da. Xuất nhập khẩu giảm mạnh từng ngày. Chỉ sau 2 tuần đầu tháng 8/2021, doanh số xuất  khẩu đã giảm đến 24,2%, nhập khẩu giảm 11,7%, thu ngân sách từ xuất nhập khẩu giảm  3.860 tỷ đồng, chỉ còn bằng với 2/3 so với 2 tuần cuối tháng 7/2021. 
 
Hệ lụy là việc đảm bảo nguồn thu ngân sách trở nên rất khó khăn, trong khi đó chi bất thường do các ca nhiễm Covid-19 tăng mạnh. Thu nội địa chịu tổn thương nghiêm trọng và còn kéo dài. Nguồn thu từ dầu thô đã giảm nghiêm trọng do cú sốc kép gồm giá dầu thế giới giảm mạnh và dịch bệnh Covid-19.  Kỳ vọng tăng được nguồn thu từ dầu thô cũng rất hạn chế. Giá dầu đảo chiều, giảm mạnh từ tháng 7/2021 và dự đoán tiếp tục giảm cho đến hết năm 2021. Thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu dù bị ảnh hưởng nghiệm trọng nhưng dự kiến là lực kéo, tạo nguồn cho thu ngân sách năm 2021. (Hình 1, 2, 3)
 






 
3. Những tín hiệu tích cực xuất hiện ngay trong giai đoạn khó khăn nhất
 
Mặc dù trong khó khăn, sức khỏe của nền kinh tế vẫn có những dấu hiệu tích cực: Bốn mặt hàng xuất khẩu có tín hiệu phục hồi ngay sau đứt gãy sản xuất trong tháng 6/2021, gồm: Cao su, gạo, cà phê và hàng dệt may (Hình 4). Năm thị trường xuất khẩu chính vẫn còn hoạt động tương đối tích cực, doanh số xuất khẩu tháng 7/2021 tăng mạnh so với tháng 6/2021, gồm Trung Quốc, Mỹ, Hồng Kông, Nhật và Hàn Quốc. Xuất khẩu đến Hồng Kông tăng 65,61% so với tháng 6/2021, đến Hàn Quốc tăng 21,32%, đến Mỹ tăng 7,3%. Đây là 5 thị trường có giá trị kim ngạch xuất khẩu khoảng 10 tỷ USD mỗi tháng, xét riêng doanh nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, còn có 3 thị trường xuất khẩu quy mô nhỏ vẫn hoạt động tích cực gồm Hà Lan, Singapore, Thái Lan… Tiêu biểu, xuất khẩu sang Singapore tháng 7/2021 tăng 1,5 lần so với tháng 6/2021. 
 

 
 
Kết quả hoạt động trong lĩnh vực vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong ba tháng 5/2021, 6/2021 và 7/2021 vừa qua cho phép khẳng định Việt Nam vẫn là điểm đến thu hút vốn FDI và đây là những tín hiệu rất tích cực trong bối cảnh “âm u” của làn sóng dịch bệnh Covid-19 lần thứ 4. Số lượng dự án FDI được cấp phép vẫn tăng mạnh ngay cả trong những tháng khó khăn nhất, từ 287 dự án vào tháng 5/2021, đến 262 dự án vào tháng 6/2021 và tiếp tục tăng lên 345 dự án vào tháng 7/2021 (Hình 5). Các hoạt động bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy thu hút được nhiều FDI nhất, cả về số lượng dự án lẫn số vốn đầu tư. Ngay cả trong tháng 7/2021, khi làn sóng dịch bệnh Covid-19 lần thứ 4 trở nên nghiêm trọng hơn, thì vẫn có đến 143 dự án FDI cấp phép hoạt động trong lĩnh vực này, tăng hơn so với tháng 6/2021 là 29 dự án. Tương ứng, số vốn đăng ký trong tháng 7/2021 là 58,3 triệu USD, tăng hơn so với mức 51,10 triệu USD đăng ký ở tháng 6/2021. Điểm đáng chú ý là hoạt động chuyên môn, khoa học công nghệ thu hút rất nhiều dự án FDI trong thời gian này, với 71 dự án được cấp phép trong tháng 6/2021 và 104 dự án trong tháng 7/2021. Số vốn tương ứng là 12,8 triệu USD cho tháng 6/2021 và 16 triệu USD cho tháng 7/2021. Hoạt động kinh doanh bất động sản hút một lượng rất lớn vốn FDI so với trước đó, hơn 1.250 triệu USD mỗi tháng, không chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 đang hoành hành. Xấp xỉ một nửa vốn FDI vào Thành phố Hồ Chí Minh trong các tháng 5/2021, 6/2021 và 7/2021 chảy vào các hoạt động kinh doanh bất động sản này. 
 

 
4. Khả năng hồi phục và các hỗ trợ cần thiết cho sự hồi phục 
 
Mặc dù kết quả đạt được của 8 tháng đầu năm 2021 rất tích cực, nhưng dịch bệnh Covid-19 đã làm gián đoạn quá trình hồi phục của Thành phố Hồ Chí Minh. Tổng thời gian giãn cách ở nhiều cấp độ, tính đến 15/9/2021 lên đến 108 ngày, chiếm đến 30% quỹ thời gian của 1 năm. Tổn thất tăng cấp số nhân theo số đợt giãn cách và cấp độ giãn cách. Tương ứng, số đợt giãn cách càng dài nền kinh tế càng lún sâu vào khó khăn, khủng hoảng việc làm nghiêm trọng thì càng làm cho  khả năng hồi phục chậm lại. Chính vì vậy, việc đảm bảo cho sự phục hồi trở nên rất thách thức. 
 
Mặc dù nền kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh chịu tổn thương nặng nề ở làn sóng dịch bệnh Covid-19 lần thứ 4, nhưng với nội lực tốt nên có khả năng tự hồi phục ngay sau khi mở cửa dần trở lại ở mức cơ bản đối với tất cả các ngành kinh tế. Tuy nhiên, mức độ phục hồi tự thân sẽ rất hạn chế về mức độ và chậm theo thời gian. Để đảm bảo được sự phục hồi nhanh sau thời gian chịu lực nén do dịch Covid-19, nền kinh tế rất cần sự trợ lực để tạo đà phục hồi, trực tiếp, gián tiếp và tương thích với từng giai đoạn. 
 
Giai đoạn đầu, để hỗ trợ ổn định và tái thiết, cần ưu tiên đảm bảo an sinh và sinh kế, đây là giai đoạn quan trọng tạo bước đệm cho giai đoạn tiếp theo. Ở giai đoạn này, các gói hỗ trợ phù hợp bao gồm: Hỗ trợ an sinh cho người dân duy trì mức sống tối thiểu; hỗ trợ chi phí giáo dục cho học sinh, sinh viên; hỗ trợ cho tiểu thương và hộ kinh doanh để duy trì địa điểm kinh doanh cũng như chuyển đổi phương thức, tập quán kinh doanh từ offline sang online, trên các sàn giao dịch thương mại điện tử. 
 
Giai đoạn phục hồi, nền kinh tế cần được hỗ trợ 3 yếu tố: Kích cầu tiêu dùng, lao động và vốn. Hỗ trợ thông qua giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng cho người tiêu dùng và giãn thời gian nộp thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp có tác dụng kích cầu mạnh, nên sử dụng làm bàn đạp đẩy nền kinh tế phục hồi. Hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi việc làm và hỗ trợ doanh nghiệp tái tạo việc làm cho người lao động là rất cần thiết và phù hợp. Các gói này hướng đến mục tiêu giúp doanh nghiệp hạn chế sa thải lao động, tuyển dụng trở lại số lao động đã nghỉ việc hoặc giúp chuyển đổi vị trí việc làm cho lao động, giúp thu hút lao động có tay nghề. 
 
Cuối cùng, nhằm tạo sự đột phá, đưa nền kinh tế tăng trưởng lên một bậc và duy trì ổn định ở mặt bằng tăng trưởng mới, cần tập trung vào hỗ trợ yếu tố công nghệ. Gói kích thích số giúp mọi thành viên trong nền kinh tế bắt kịp tốc độ phát triển theo cấp số nhân của công nghệ, đang diễn ra mạnh mẽ và cấp thiết trên toàn thế giới. Đại dịch Covid-19 cho thấy vai trò to lớn của công nghệ, không chỉ trong duy trì kinh tế mà còn cả trong mọi mặt của đời sống. Về lâu dài, đầu tư công sẽ là cốt lõi để duy trì sự phát triển bền vững. 
 
Thành phố Hồ Chí Minh có thể phục hồi và phát triển mạnh mẽ như đã từng hay không, ngoài việc phụ thuộc vào việc áp dụng các gói hỗ trợ này, còn tính đến khả năng kiểm soát được dịch bệnh Covid-19 ở mức ổn định. Bên cạnh đó, điều quan trọng là quy mô hỗ trợ phải đủ lớn và thời gian áp dụng đủ dài để phát huy được các tác dụng tích cực.
 
(Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) trong khuôn khổ Chương trình Nghiên cứu “Kiến tạo động lực phục hồi kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn Covid-19 lần thứ 4” do Trường Đại học Kinh tế - Luật và Viện Nghiên cứu Phát triển công nghệ ngân hàng ĐHQG-HCM thực hiện).

 Tài liệu tham khảo:
 
1. Clemens, M., & Roeger, W. (2021). Temporary VAT Reduction during the Lockdown. 
 
2. Funke, M., & Terasa, R. (2020). Will Germany’s Temporary VAT Tax Rates Cut as Part of the Covid-19 Fiscal Stimulus Package Boost Consumption and Growth? 
 
3. Guo, Y. M., & Shi, Y. R. (2021). Impact of the VAT reduction policy on local fiscal pressure in China in light of the COVID-19 pandemic: A measurement based on a computable general equilibrium model. Economic Analysis and Policy, 69, 253-264. 
 
4. International Monetary Fund (IMF). (2021). Policy responses to Covid-19.   Retrieved from https://www.imf.org/en/Topics/imf-and-covid19/Policy-Responses-to-Covid-19#T
 
5. OECD. (2020). Tax and fiscal policy in response to the Coronavirus crisis: Strengthening confidence and resilience. 
 
6. Richard Blundell, Peter Levell, & Helen Miller. (2020). A temporary VAT cut could help stimulate the economy, but only if timed correctly Retrieved from https://ifs.org.uk/publications/14903
 
7. Chính phủ (ngày 01/7/2021): Nghị quyết 68/NQ-CP về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.
 
8. Hoàng Công Gia Khánh và cộng sự. (tháng 5/2020). Lựa chọn chính sách phục hồi kinh tế giai đoạn Covid-19, Trường Đại học Kinh tế - Luật.
 
9. Hội đồng Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (ngày 25/6/2021): Nghị quyết 09/2021/NQ-HĐND về một số chế độ, chính sách đặc thù phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19, hỗ trợ người dân bị tác động bởi dịch Covid-19 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
 
10. Atashbar., T. (2020). Financing the Covid-19 deficit when you are short of money: Beware of copy-cat policymaking. VoxEU.org, 13 April. 
 
11. Fornaro, L and M Wolf (2020). Coronavirus and Macroeconomic Policy. VoxEU.org, 10 March. 
 
12. HM Government (2021). Covid-19 response - Spring 2021, https://assets.publishing. 
 
13.service.gov.uk/government/uploads/system/uploads/attachment_data/file/963491/Covid-19_Response_-_Spring_2021.pdf (truy cập ngày 25/8/2021).
 
14. International Monetary Fund (IMF). (July 2021). Fiscal Monitor Database of Country Fiscal Measures in Response to the Covid-19 Pandemic. https://www.imf.org/en/Topics/imf-and-covid19/Fiscal-Policies-Database-in-Response-to-COVID-19 (truy cập ngày 25/8/2021).

TS. Phạm Thị Thanh Xuân
PGS., TS. Hoàng Công Gia Khánh
ThS. Huỳnh Thị Minh Lý 


Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/03/2024 179 lượt xem
Để nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ NHNN phù hợp thông lệ quốc tế và các quy định về kiểm toán nội bộ của Việt Nam, một trong những yêu cầu hiện nay là nghiên cứu, rà soát, ban hành Sổ tay Kiểm toán nội bộ NHNN nhằm tập hợp, hệ thống hóa các quy định chung về kiểm toán nội bộ của NHNN.
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
25/03/2024 834 lượt xem
Trong kỉ nguyên số, Chatbot đóng vai trò vô cùng quan trọng và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, trong đó có lĩnh vực ngân hàng.
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
22/03/2024 1.492 lượt xem
Trong thị trường kinh tế, giao dịch phái sinh là một dạng hợp đồng dựa trên giá trị các loại tài sản cơ sở khác nhau như hàng hóa, chỉ số, lãi suất hay cổ phiếu (giấy tờ có giá).
Văn hóa số và lộ trình xây dựng
Văn hóa số và lộ trình xây dựng
11/03/2024 2.116 lượt xem
Hiện nay, quyết liệt chuyển đổi số, tạo dựng hệ sinh thái ngân hàng mở, tạo ra nền tảng phát triển bán lẻ, tăng doanh thu dịch vụ, gia tăng trải nghiệm của khách hàng là xu hướng chủ đạo của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam.
Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Nhìn từ bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay
Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Nhìn từ bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay
07/03/2024 2.311 lượt xem
Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ quốc gia có thu nhập thấp sang quốc gia có thu nhập trung bình. Song, những khó khăn nội tại và thách thức bên ngoài của nền kinh tế làm cho nguy cơ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình là có thể.
Động lực và kì vọng mới cho tương lai
Động lực và kì vọng mới cho tương lai
07/03/2024 2.150 lượt xem
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và phu nhân Lê Thị Bích Trân cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã bắt đầu chuyến công tác tham dự Hội nghị cấp cao đặc biệt kỷ niệm 50 năm quan hệ ASEAN - Australia; thăm chính thức Australia và New Zealand từ ngày 05 - 11/3/2024 theo lời mời của Thủ tướng Australia Anthony Albanese và Thủ tướng New Zealand Christopher Luxon.
Vai trò, tầm quan trọng của ESG trong phát triển bền vững tại ngân hàng thương mại Việt Nam
Vai trò, tầm quan trọng của ESG trong phát triển bền vững tại ngân hàng thương mại Việt Nam
05/03/2024 2.968 lượt xem
Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp đang dần chú trọng hơn đến sự phát triển bền vững như một hướng đi quan trọng trong hoạt động kinh doanh.
Nâng cao chất lượng đào tạo thông qua việc gắn chặt đào tạo cơ bản với đào tạo thực tế tại Học viện Ngân hàng
Nâng cao chất lượng đào tạo thông qua việc gắn chặt đào tạo cơ bản với đào tạo thực tế tại Học viện Ngân hàng
21/02/2024 2.679 lượt xem
Mô hình Ba Nhà là một mô hình nổi tiếng nêu bật sự gắn liền chặt chẽ giữa đào tạo lí thuyết và đào tạo thực tế, thông qua mối quan hệ giữa cơ sở giáo dục đại học, doanh nghiệp và chính phủ với tiềm năng đổi mới và phát triển kinh tế trong một xã hội tri thức.
Triển khai ESG trong lĩnh vực ngân hàng góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững
Triển khai ESG trong lĩnh vực ngân hàng góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững
20/02/2024 2.935 lượt xem
Chuyển dịch sang nền kinh tế phát thải carbon thấp, kinh tế tuần hoàn, hướng tới phát triển bền vững đang trở thành một xu hướng tất yếu, là ưu tiên của nhiều quốc gia trên thế giới để ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
Nỗ lực nâng cao vị thế đối ngoại của Việt Nam
Nỗ lực nâng cao vị thế đối ngoại của Việt Nam
19/02/2024 2.384 lượt xem
Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng được tổ chức vào ngày 14/12/2021 đã thống nhất cao khẳng định về sự hình thành, phát triển của trường phái đối ngoại, ngoại giao "cây tre Việt Nam": Gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2023 và triển vọng năm 2024
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2023 và triển vọng năm 2024
16/02/2024 6.789 lượt xem
Kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (năm 1987) đến nay, Việt Nam đã thu hút được gần 438,7 tỉ USD vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Khu vực FDI đã đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, nâng cao vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Riêng năm 2023, mặc dù tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giảm tốc (chỉ đạt 5,05% GDP so với 8% GDP năm 2022) do bối cảnh kinh tế toàn cầu gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn của vốn FDI.
Nhìn lại công tác điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam năm 2023 - Nhận định dư địa chính sách tiền tệ năm 2024
Nhìn lại công tác điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam năm 2023 - Nhận định dư địa chính sách tiền tệ năm 2024
15/02/2024 3.313 lượt xem
Kinh tế thế giới năm 2023 cho thấy nhiều bất định đến từ căng thẳng địa chính trị cũng như áp lực về tăng trưởng và lạm phát, kéo theo sự điều chỉnh về chính sách tiền tệ (CSTT) của các quốc gia trên thế giới.
Việt Nam vững mạnh, vươn cao trong năm Rồng
Việt Nam vững mạnh, vươn cao trong năm Rồng
13/02/2024 2.276 lượt xem
Năm 2024, chúng ta có thể tin tưởng, những khó khăn nhất đã ở phía sau. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam quý IV/2023 đã phục hồi lên 6,72% so với cùng kì năm 2022, góp phần vào tổng mức tăng trưởng cả năm 2023 đạt 5,05%. Đóng góp cho đà hồi phục này là nhờ sự cải thiện về thương mại bắt đầu trong quý cuối cùng của năm 2023.
Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2024: Kiên cường và đầy hứa hẹn trước những thách thức
Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2024: Kiên cường và đầy hứa hẹn trước những thách thức
12/02/2024 2.551 lượt xem
Nhìn chung, kinh tế thế giới đang dần hồi phục sau đại dịch Covid-19 và những biến động địa chính trị, tuy nhiên, vẫn còn chậm và chưa đồng đều.
Quản trị nguồn nhân lực trong hoạt động ngân hàng: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
Quản trị nguồn nhân lực trong hoạt động ngân hàng: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
17/01/2024 4.292 lượt xem
Quản trị nguồn nhân lực trong hoạt động ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển bền vững của các ngân hàng. Hiện nay, vấn đề quản trị nguồn nhân lực trong hoạt động ngân hàng vẫn còn tồn tại những hạn chế, khó khăn nhất định, điều này đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động của các ngân hàng.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

78.000

80.000

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

78.000

80.000

Vàng SJC 5c

78.000

80.020

Vàng nhẫn 9999

68.000

69.300

Vàng nữ trang 9999

67.900

68.800


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,550 24,920 26,090 27,522 30,409 31,703 158.80 168.08
BIDV 24,625 24,935 26,276 27,495 30,531 31,832 159.54 168.07
VietinBank 24,512 24,932 26,321 27,616 30,837 31,847 160.42 168.37
Agribank 24,600 24,930 26,213 27,483 30,551 31,684 159.87 167.97
Eximbank 24,520 24,910 26,361 27,131 30,735 31,632 161.25 165.95
ACB 24,570 24,970 26,457 27,114 30,964 31,606 161.07 166.23
Sacombank 24,552 24,947 26,529 27,087 31,020 31,531 161.74 166.78
Techcombank 24,561 24,933 26,174 27,513 30,438 31,764 157.07 169.48
LPBank 24,380 25,100 26,095 27,625 30,866 31,814 159.15 170.67
DongA Bank 24,610 24,960 26,400 27,080 30,780 31,620 159.00 166.10
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?