Kết quả thực hiện chính sách tài khóa năm 2022 và định hướng năm 2023
17/01/2023 2.408 lượt xem
Năm 2022, nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) được triển khai trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước phát sinh nhiều biến động, diễn biến phức tạp khó lường. Dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát, nhưng căng thẳng địa chính trị, xung đột vũ trang và lạm phát tăng cao đã khiến đà phục hồi của nền kinh tế thế giới chậm lại, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro, bất ổn trên thị trường tài chính, tiền tệ. Ở trong nước, nền kinh tế phục hồi nhanh, song vẫn còn nhiều khó khăn, áp lực kiểm soát lạm phát, tỷ giá, lãi suất, do ảnh hưởng tiêu cực từ khủng hoảng năng lượng và biến động mạnh của thị trường tài chính, tiền tệ toàn cầu; thị trường tài chính, tiền tệ, bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp nhiều biến động... Tuy nhiên, với sự chủ động trong điều hành và triển khai thực hiện nhiều giải pháp hiệu quả, ngành Tài chính đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tài chính - NSNN.
 
1. Chủ động triển khai các giải pháp tài khóa linh hoạt, ứng phó hiệu quả, kịp thời với biến động trong và ngoài nước
 
1.1. Giải pháp thu NSNN  
 
Cùng với việc tiếp tục thực hiện miễn, giảm thuế, phí, lệ phí theo các văn bản đã ban hành cuối năm 2021 có hiệu lực thi hành trong năm 20221, chính sách thu NSNN được tiếp tục mở rộng ưu đãi trong năm 2022 theo tinh thần Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội như giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống còn 8% từ ngày 01/02/2022 đến hết ngày 31/12/2022, trừ một số hàng hóa, dịch vụ ít bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 như viễn thông, công nghệ thông tin, hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm... và các hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. 
 
Trước diễn biến phức tạp của thị trường xăng, dầu thế giới, giá xăng, dầu tăng mạnh, gây áp lực lên lạm phát và hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước và đời sống Nhân dân, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành các nghị quyết2 về mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn. Cụ thể, giảm 50% mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng (trừ etanol), dầu diesel, dầu mazut, dầu nhờn, mỡ nhờn và giảm 70% đối với dầu hỏa từ ngày 01/4/2022; sau đó, tiếp tục giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu xuống mức sàn từ ngày 11/7/2022 đến hết ngày 31/12/2022. Đồng thời, thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đối với mặt hàng xăng cũng được điều chỉnh giảm từ mức thuế suất 20% xuống mức thuế suất 10% từ ngày 08/8/2022 để đa dạng hóa nguồn cung xăng nhập khẩu cho thị trường trong nước3. Ngoài ra, nhiều chính sách hỗ trợ khác cũng được ban hành như gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2022; gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước.
 
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính đã đẩy mạnh triển khai hóa đơn điện tử, đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng, góp phần thúc đẩy tăng thu và chống thất thu NSNN, chống gian lận trục lợi thuế. Kể từ ngày 01/7/2022, toàn bộ doanh nghiệp và hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trên cả nước đã thực hiện đăng ký và chuyển đổi sử dụng hóa đơn điện tử. Đồng thời, Bộ Tài chính đã xây dựng Cổng thông tin điện tử dành cho nhà cung cấp nước ngoài; đến nay, đã có 39 nhà cung cấp nước ngoài đăng ký, khai thuế và nộp thuế.  
 
Với việc triển khai có hiệu quả các giải pháp chính sách tài khóa, đồng bộ với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy phục hồi kinh tế, kết hợp với tăng cường công tác quản lý thu, đã tác động tích cực đến kết quả thu năm 2022. Thu NSNN cả năm ước đạt 1.803,6 nghìn tỷ đồng, vượt 27,8% dự toán. Trong đó, thu ngân sách trung ương vượt 25,8% dự toán; thu ngân sách địa phương vượt 29,9% dự toán. Tổng số tiền miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí cho doanh nghiệp và người dân ước tính đến hết tháng 12/2022 đạt khoảng 193,4 nghìn tỷ đồng; trong đó, gia hạn khoảng 105,9 nghìn tỷ đồng, miễn, giảm khoảng 87,5 nghìn tỷ đồng. 


Các nhiệm vụ chi NSNN năm 2022 đã cơ bản hoàn thành mục tiêu đề ra. Lũy kế chi NSNN 12 tháng năm 2022 ước đạt 1.562,3 nghìn tỷ đồng, bằng 87,5% dự toán; trong đó, chi đầu tư phát triển ước đạt 82,8% dự toán, chi thường xuyên ước đạt 92,4% dự toán; đáp ứng kịp thời nhiệm vụ chi phát sinh theo tiến độ thực hiện của đơn vị sử dụng ngân sách; khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, đảm bảo quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội và thanh toán đầy đủ các khoản nợ đến hạn. 
 

 
1.2. Chi NSNN chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả
 
Chính sách chi NSNN được tiếp tục thực hiện theo hướng chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả, ưu tiên nguồn lực ổn định an sinh xã hội. Chính phủ đã yêu cầu các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đề xuất phương án cắt giảm những khoản chi ngân sách trung ương đã được giao trong dự toán đầu tư nhưng đến ngày 30/6/2022 chưa phân bổ (trừ trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định) để bổ sung nguồn lực thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế4. Đồng thời, chính sách chi NSNN được mở rộng thông qua việc tăng chi đầu tư cho hệ thống y tế cơ sở, y tế dự phòng, trung tâm kiểm soát bệnh tật cấp vùng cũng như nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh của ngành Y tế; cấp bù lãi suất cho Ngân hàng Chính sách xã hội hỗ trợ vay ưu đãi tín dụng; đầu tư xây mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng và hiện đại hóa các cơ sở trợ giúp xã hội, đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm; hỗ trợ lãi suất từ NSNN đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh5; hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động… 
 
Các văn bản về chi đầu tư phát triển, tăng cường và đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công tăng hiệu quả nguồn lực NSNN cũng được ban hành nhằm tạo động lực cho phát triển kinh tế6. Các hoạt động đầu tư công được theo dõi khá sát thông qua các kỳ họp của Chính phủ nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện dự án đầu tư, tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công7. Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 28/6/2022 về việc phân bổ, cắt giảm, điều chỉnh kế hoạch đầu tư công năm 2022 giữa các bộ, cơ quan trung ương và địa phương nhằm tập trung, ưu tiên nguồn lực cho các dự án quan trọng, cấp bách. 
 
Các nhiệm vụ chi NSNN năm 2022 đã cơ bản hoàn thành mục tiêu đề ra. Lũy kế chi NSNN 12 tháng năm 2022 ước đạt 1.562,3 nghìn tỷ đồng, bằng 87,5% dự toán; trong đó, chi đầu tư phát triển ước đạt 82,8% dự toán, chi thường xuyên ước đạt 92,4% dự toán; đáp ứng kịp thời nhiệm vụ chi phát sinh theo tiến độ thực hiện của đơn vị sử dụng ngân sách; khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, đảm bảo quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội và thanh toán đầy đủ các khoản nợ đến hạn. 
 
1.3. Bội chi NSNN được kiểm soát, nợ công đảm bảo trong ngưỡng Quốc hội cho phép
 
Với kết quả thu, chi NSNN nêu trên, cân đối ngân sách trung ương và ngân sách địa phương được đảm bảo. Ước tính năm 2022, bội chi NSNN thực hiện (bao gồm Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội) đạt khoảng 4% GDP. 
 
Cùng với việc đảm bảo mức bội chi NSNN, công tác quản lý nợ công cũng được chú trọng. Ngày 12/4/2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 448/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình quản lý nợ công 03 năm giai đoạn 2022 - 2024 và Kế hoạch vay, trả nợ công năm 2022, với các mục tiêu chính là: (i) Đảm bảo nhiệm vụ huy động vốn vay thông qua đa dạng hóa nguồn vốn và phương thức vay trong nước và ngoài nước để đáp ứng nhu cầu cân đối NSNN, bao gồm huy động vốn vay để thực hiện các chính sách tài khóa hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; (ii) Kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu an toàn nợ, đảm bảo trong giới hạn được Quốc hội phê duyệt; (iii) Thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn trong nước.  
 
Bộ Tài chính đã chủ động điều hành việc phát hành trái phiếu Chính phủ  để sử dụng có hiệu quả ngân quỹ nhà nước. Năm 2022 đã thực hiện phát hành 214,7 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, với kỳ hạn bình quân 12,67 năm, lãi suất bình quân 3,48%/năm. Việc quản lý và sử dụng vốn vay được kiểm soát chặt chẽ, các khoản vay được thực hiện hiệu quả hơn, góp phần đảm bảo các chỉ tiêu an toàn về nợ công trong giới hạn Quốc hội cho phép. Đến cuối năm 2022, dư nợ công ước đạt 38% GDP, dư nợ Chính phủ ước đạt 34,7% GDP, dư nợ vay nước ngoài của quốc gia ước đạt 36,8% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ ước đạt 16,3% tổng thu NSNN; trong phạm vi Quốc hội cho phép. Kết quả tích cực từ phát triển kinh tế - xã hội, tài chính - NSNN, quản lý, kiểm soát nợ công đã góp phần nâng mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia. Năm 2022, Việt Nam tiếp tục được S&P Global Ratings nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên mức BB+, “triển vọng ổn định”; và Moody's Investors Service nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn từ mức Ba3 lên mức Ba2, “triển vọng ổn định”.
 
2. Một số vấn đề đặt ra đối với tình hình thực hiện NSNN năm 2022
 
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách tài khóa năm 2022 vẫn còn tồn tại, hạn chế đáng chú ý như:
 
2.1. Tính ổn định, bền vững của thu NSNN chưa cao
 
Mặc dù tổng thể thu NSNN năm 2022 vượt so dự toán, song chủ yếu là tăng thu từ tiền sử dụng đất, thu dầu thô và hoạt động xuất, nhập khẩu. Bên cạnh đó, số thu nội địa trong những tháng cuối năm 2022 có xu hướng giảm tốc. Thu nội địa bình quân 5 tháng đầu năm đạt 130,8 nghìn tỷ đồng/tháng, từ tháng 6 đến nay thu bình quân chỉ đạt gần 100 nghìn tỷ đồng, trong đó thu tháng 9 chỉ còn 71,2 nghìn tỷ đồng, tháng 10 không kể các khoản thu kê khai thu theo quý nộp thì số thu chỉ đạt khoảng 70 nghìn tỷ đồng. Thu nội địa tháng 11 ước giảm khoảng 41 nghìn tỷ đồng so với tháng 10. Tính chung cả năm 2022, tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN ước đạt khoảng 80%, giảm so với mức 83% của năm 2021. Nguyên nhân do một số ngành, lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh (như sản xuất vật liệu xây dựng, sắt thép, thiết bị công nghệ; điện thoại di động; tivi các loại) thị trường tiêu thụ vẫn còn nhiều khó khăn. Chi phí đầu vào, chi phí vận chuyển tăng cao do ảnh hưởng của giá xăng dầu, nguyên liệu đầu vào, lãi suất, tỷ giá tăng, suy giảm kinh tế trên toàn cầu.
 
2.2. Giải ngân chi đầu tư phát triển còn chậm
 
Triển khai phân bổ dự toán chi NSNN chậm, nhất là các nhiệm vụ chi thuộc Chương trình phục hồi, Chương trình mục tiêu quốc gia; giải ngân vốn đầu tư công thấp, nhất là vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2022, giải ngân vốn đầu tư công nguồn NSNN ước đạt khoảng 434,47 nghìn tỷ đồng (bằng 74,09% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2021 là 77,30% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao). Trong đó, vốn trong nước ước đạt khoảng 423,08 nghìn tỷ đồng; vốn nước ngoài ước đạt 11,39 nghìn tỷ đồng.
 
Giải ngân vốn đầu tư công còn chậm và chưa đạt yêu cầu đặt ra do một số nguyên nhân sau: 
 
(i) Tiến độ và chất lượng công tác lập, thẩm định, phê duyệt, giao phân bổ kế hoạch vốn đầu tư, việc lựa chọn dự án xây dựng danh mục, chuẩn bị danh mục đầu tư và chuẩn bị đầu tư còn nhiều bất cập, hiệu quả chưa cao; 
(ii) Giá nguyên, nhiên vật liệu, cước phí vận chuyển tăng cao, việc huy động các lao động, nhà thầu, máy móc, trang thiết bị cũng bị gián đoạn; công tác thi công và tích lũy khối lượng thường dồn vào cuối năm để nghiệm thu và phụ thuộc vào tiến độ của hợp đồng cung như tạm ứng vốn; (iii) Công tác giải phóng mặt bằng gặp nhiều khó khăn; (iv) Tình trạng kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm, đặc biệt là từ khâu chuẩn bị đầu tư; (v) Công tác giao chi tiết kế hoạch vốn đầu tư công nguồn NSNN tại một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương còn chậm và thực hiện nhiều lần, đặc biệt là các chương trình mục tiêu.  
 
2.3. Thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp khó khăn; niềm tin thị trường thấp, sụt giảm
 
Thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp biến động mạnh, một số ít doanh nghiệp vi phạm pháp luật về phát hành trái phiếu, thao túng chứng khoán đã tác động tiêu cực đến sự phát triển lành mạnh của thị trường và tâm lý nhà đầu tư, ảnh hưởng đến việc huy động vốn của Chính phủ và doanh nghiệp thông qua thị trường chứng khoán.
 
3. Định hướng chính sách tài khóa năm 2023
 
Theo dự toán NSNN năm 2023 đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 69/2022/QH15 ngày 11/11/2022, tổng thu NSNN là 1.620,744 nghìn tỷ đồng; tổng chi NSNN là 2.076,244 nghìn tỷ đồng; bội chi NSNN (bao gồm cả phần cho Chương trình phục hồi) khoảng 4,42% GDP. Trong bối cảnh tình hình thế giới dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; ở trong nước, thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, nhưng khó khăn, thách thức là nhiều hơn khi kinh tế Việt Nam có độ mở cao, kinh tế thế giới có nguy cơ suy thoái, để đạt được mục tiêu tài chính - ngân sách nêu trên, trong năm 2023, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: 
 
Một là, theo dõi sát diễn biến kinh tế thế giới và trong nước; dự báo và đánh giá đúng tình hình, nhận diện kịp thời các rủi ro; đề xuất giải pháp điều hành chủ động, linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tài khóa, phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và góp phần thúc đẩy phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội. 
 
Hai là, nghiên cứu, rà soát, đánh giá và sửa đổi, bổ sung các luật về thuế theo các định hướng của Đảng, Nhà nước và Chiến lược Cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 nhằm hoàn thiện đồng bộ hệ thống chính sách thuế phù hợp với các tiêu chuẩn của hệ thống thuế tốt theo thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu về nguồn lực để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030. Bên cạnh đó, thực hiện các giải pháp về quản lý thu NSNN và cải cách thủ tục hành chính trong quản lý thu NSNN, đảm bảo thực hiện hiệu quả các mục tiêu đề ra.
 
Ba là, chủ động rà soát lại nhu cầu chi và cơ cấu lại chi NSNN; sắp xếp các khoản chi theo thứ tự ưu tiên, thực hiện quản lý chi NSNN chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả. Đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công thúc đẩy phục hồi nền kinh tế, thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. 
 
Bốn là, kiểm soát chặt chẽ bội chi NSNN, nợ công, các nghĩa vụ nợ dự phòng của NSNN, nợ của chính quyền địa phương, đảm bảo an toàn tài chính quốc gia, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Các khoản vay mới vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài chỉ sử dụng cho chi đầu tư phát triển, không sử dụng cho chi thường xuyên. 
 
Năm là, hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế kiểm tra, giám sát đảm bảo sự vận hành ổn định, an toàn của thị trường tài chính và dịch vụ tài chính. Trong đó, đặc biệt quan tâm rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật về chứng khoán, phát hành trái phiếu doanh nghiệp; nâng cao tính công khai, minh bạch; tăng cường trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp phát hành; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; tăng cường quản lý, giám sát và giảm thiểu các rủi ro cho thị trường; nâng cao hệ số tín nhiệm quốc gia. 
 
Sáu là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý giá; theo dõi sát diễn biến cung - cầu, thị trường, giá cả; làm tốt công tác phân tích, dự báo, xây dựng các kịch bản điều hành giá phù hợp với từng giai đoạn. Công khai, minh bạch trong điều hành đối với giá điện, xăng dầu, cũng như các hàng hóa, dịch vụ quan trọng, thiết yếu khác; điều tiết hài hòa lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, doanh nghiệp và Nhà nước. Tăng cường thanh tra, kiểm tra giá, kết hợp với thuế để ngăn chặn và kiên quyết xử lý các hành vi tăng giá bất hợp lý, nhất là đối với các nguyên vật liệu quan trọng và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.
 
Bảy là, tập trung tái cơ cấu, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, khuyến khích đổi mới sáng tạo và quản trị theo chuẩn mực quốc tế. 

Tám là, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số đồng bộ, đặc biệt là trong các ngành, lĩnh vực trực tiếp phục vụ người dân và doanh nghiệp.
 
1 Như: (i) Giảm 50% mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay từ ngày 01/01/2022 đến hết ngày 31/12/2022; (ii) Giảm 50% lệ phí trước bạ khi đăng ký ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước; (iii) Giảm mức thu 37 khoản phí, lệ phí trong 6 tháng đầu năm 2022...
2 Nghị quyết số 18/2022/UBTVQH15 ngày 23/3/2022 và Nghị quyết số 20/2022/UBTVQH15 ngày 06/7/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
3 Nghị định số 51/2022/NĐ-CP ngày 08/8/2022 của Chính phủ .
4 Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 08/6/2022 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5/2022. 
5 Nghị định số 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 của Chính phủ về hỗ trợ lãi suất từ NSNN đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh.  
6 Công điện số 126/CĐ-TTg ngày 12/02/2022, Công điện số 307/CĐ-TTg ngày 19/5/2022, Công điện số 501/CĐ-TTg ngày 10/6/2022, Quyết định số 548/QĐ-TTg ngày 02/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ.
7 Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 08/4/2022, Nghị quyết số 63/NQ-CP ngày 03/5/2022, Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 07/3/2022 của Chính phủ. 

Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Tài chính (2022), Báo cáo đánh giá công tác điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2022, triển khai nhiệm vụ tài chính - NSNN năm 2023.
2. Bộ Tài chính (2022), Báo cáo NSNN các tháng năm 2022.
3. Bộ Tài chính (2022), Báo cáo tình hình thanh toán vốn đầu tư nguồn NSNN lũy kế 6 tháng, ước thực hiện 7 tháng kế hoạch năm 2022.

TS. Nguyễn Như Quỳnh
Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính


 
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Tín dụng xanh tại Việt Nam: Thực trạng và một số khuyến nghị
Tín dụng xanh tại Việt Nam: Thực trạng và một số khuyến nghị
30/03/2023 110 lượt xem
Là một trong những trụ cột chính của hệ thống tài chính xanh, tín dụng xanh đang là chủ đề được rất nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. Mô hình tín dụng xanh đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn vốn cần thiết nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến môi trường và khí hậu. Tại Việt Nam, hoạt động tín dụng xanh cũng đã được triển khai thực hiện trong những năm gần đây và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trong nhiều lĩnh vực, bao gồm tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo, nông nghiệp sạch và nông nghiệp công nghệ cao.
Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt
Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt
30/03/2023 98 lượt xem
Ngày 28/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1813/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025 (Quyết định số 1813). Sau hơn 01 năm triển khai thực hiện Quyết định số 1813, hoạt động TTKDTM đã đạt được những kết quả tích cực. Thời gian tới, cần sự phối hợp đồng bộ của các bộ, ngành trong xây dựng hành lang pháp lí và đẩy nhanh quá trình kết nối, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư vào hoạt động nghiệp vụ ngân hàng, qua đó tạo điều kiện thúc đẩy thanh toán số, chuyển đổi số ngành Ngân hàng.
Quản lí nhà nước đối với mô hình kinh tế hợp tác xã tại Việt Nam hiện nay và một số khuyến nghị
Quản lí nhà nước đối với mô hình kinh tế hợp tác xã tại Việt Nam hiện nay và một số khuyến nghị
29/03/2023 138 lượt xem
Phát triển kinh tế tập thể được xem là xu thế tất yếu trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu, rộng như hiện nay và đây cũng chính là thành phần kinh tế quan trọng bên cạnh kinh tế nhà nước của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tập thể hay mô hình hợp tác xã của nước ta ở thời điểm hiện tại chưa thực sự phát huy hiệu quả theo đúng mục tiêu, chính sách của Nhà nước.
Basel III: Quá trình thực hiện tại Việt Nam và một số khuyến nghị
Basel III: Quá trình thực hiện tại Việt Nam và một số khuyến nghị
27/03/2023 362 lượt xem
Hiện nay, bên cạnh Basel II, nhiều ngân hàng Việt Nam cũng đã áp dụng Basel III, IFRS 9. Đây là chuẩn mực quốc tế giúp các ngân hàng nâng cao quản trị rủi ro và cạnh tranh hơn so với các đối thủ cùng Ngành. Bên cạnh đó, điều này cũng góp phần giúp hệ thống tổ chức tín dụng nói chung phát triển hiệu quả và bền vững. Tuy nhiên, tại Việt Nam, việc ứng dụng Basel III vẫn còn nhiều vướng mắc bởi Hiệp ước này có những yêu cầu cao hơn và khắt khe hơn.
Bảo vệ quyền và lợi ích của người mua nợ trong giao dịch mua, bán nợ với các tổ chức tín dụng tại Việt Nam
Bảo vệ quyền và lợi ích của người mua nợ trong giao dịch mua, bán nợ với các tổ chức tín dụng tại Việt Nam
22/03/2023 459 lượt xem
Xử lí nợ nhanh chóng và hiệu quả luôn được coi là một trong những mục tiêu cơ bản, quan trọng nhằm đảm bảo an toàn cho các tổ chức tín dụng (TCTD). Có nhiều phương thức khác nhau để TCTD xử lí nợ và trong những năm gần đây, TCTD có xu hướng lựa chọn nhiều hơn việc xử lí nợ thông qua mua, bán nợ với các chủ thể có nhu cầu trên thị trường.
Tác động của quy định mới về đăng kí biện pháp bảo đảm đến các tổ chức tín dụng
Tác động của quy định mới về đăng kí biện pháp bảo đảm đến các tổ chức tín dụng
22/03/2023 467 lượt xem
Nghị định số 99/2022/NĐ-CP ngày 30/11/2022 của Chính phủ về đăng kí biện pháp bảo đảm (Nghị định số 99), có hiệu lực thi hành từ ngày 15/01/2023 được cho rằng sẽ đồng bộ hành lang pháp lí với Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (Nghị định số 21) và sẽ khắc phục được các tồn tại, hạn chế trong 05 năm triển khai Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đăng kí biện pháp bảo đảm...
Tài chính bất động sản nhà ở và một số hàm ý chính sách tại Việt Nam
Tài chính bất động sản nhà ở và một số hàm ý chính sách tại Việt Nam
21/03/2023 530 lượt xem
Hiện tại, thị trường bất động sản nhà ở tại Việt Nam được đánh giá là có vai trò quan trọng. Bất động sản nhà ở là ngành đang đóng góp 11% GDP, có quan hệ mật thiết với nhiều ngành nghề, tạo ra nhiều việc làm (A. Minh, 2023). Lịch sử ở Việt Nam cho thấy, khu vực bất động sản nhà ở sau một số năm bùng nổ, nhiều doanh nghiệp gia tăng huy động vốn cho đầu tư bất động sản, làm ăn rất có lãi (Anh, 2023).
Thu hút FDI của Việt Nam năm 2022 và triển vọng
Thu hút FDI của Việt Nam năm 2022 và triển vọng
15/03/2023 3.347 lượt xem
Trong gần bốn thập kỉ (1986 - 2022), Việt Nam được xem là hình mẫu thành công trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nhờ môi trường đầu tư hấp dẫn, nền tảng chính trị ổn định và tiềm năng tăng trưởng kinh tế khá cao. Năm 2022, các nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục rót vốn mạnh vào Việt Nam, vẫn xem Việt Nam là điểm đến hấp dẫn với những lợi thế về địa lý, thể chế và môi trường đầu tư ngày càng được hoàn thiện.
Một số đánh giá và góp ý hoàn thiện Dự thảo Luật Hợp tác xã sửa đổi
Một số đánh giá và góp ý hoàn thiện Dự thảo Luật Hợp tác xã sửa đổi
09/03/2023 1.277 lượt xem
Tóm tắt: Luật Hợp tác xã (HTX) 2012 được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2012 thay thế Luật HTX 2003 đã thể chế hóa các chủ trương của Đảng và Nhà nước về tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, tiếp cận gần hơn với bản chất, giá trị, nguyên tắc của HTX trên thế giới.
Tác động của Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới đến mô hình kinh tế tập thể, hợp tác xã ở Việt Nam và một số kiến nghị
Tác động của Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới đến mô hình kinh tế tập thể, hợp tác xã ở Việt Nam và một số kiến nghị
06/03/2023 1.143 lượt xem
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về phát triển kinh tế, trong đó, nổi bật là việc đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia trên thế giới cùng sự tích cực khi tham gia vào các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.
Khẩn trương hoàn thiện dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi)
Khẩn trương hoàn thiện dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi)
03/03/2023 1.231 lượt xem
Ngày 02/3/2023, tại trụ sở Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng đã chủ trì cuộc họp Ban soạn thảo và Tổ biên tập Dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi).
Những điểm mới trong Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và một số điểm cần điều chỉnh
Những điểm mới trong Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và một số điểm cần điều chỉnh
03/03/2023 3.571 lượt xem
Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) gồm 16 Chương, 236 Điều đang được Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức lấy ý kiến Nhân dân đã đưa ra nhiều chính sách mới; sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung quan trọng, đặc biệt là các nội dung liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; thu hồi đất và chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; cơ chế, chính sách tài chính, giá đất.
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luật Đất đai năm 2013 và một số góp ý hoàn thiện
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luật Đất đai năm 2013 và một số góp ý hoàn thiện
17/02/2023 2.312 lượt xem
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là một trong những vấn đề quan trọng trong quản lý nhà nước về đất đai, có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất có đất bị thu hồi.
Nguồn vốn đầu tư xanh từ khu vực nước ngoài tại Việt Nam: Thực trạng và định hướng chính sách
Nguồn vốn đầu tư xanh từ khu vực nước ngoài tại Việt Nam: Thực trạng và định hướng chính sách
17/02/2023 1.898 lượt xem
Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia dễ bị tác động bởi các hiện tượng thời tiết cực đoan và đặc biệt nhạy cảm với tình trạng thiên tai, bão lũ, áp thấp nhiệt đới… và gây ra những hậu quả lớn tới nền kinh tế, đời sống người dân. Vì vậy, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách quan trọng cũng như xây dựng các chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và biến đổi khí hậu (BĐKH), thể hiện cam kết mạnh mẽ và tầm nhìn chiến lược của Chính phủ Việt Nam.
Khung pháp lý về bảo vệ người tiêu dùng tài chính tại Việt Nam - Thực trạng và một số khuyến nghị chính sách
Khung pháp lý về bảo vệ người tiêu dùng tài chính tại Việt Nam - Thực trạng và một số khuyến nghị chính sách
14/02/2023 1.711 lượt xem
Bảo vệ người tiêu dùng tài chính được coi là một trong những cấu phần quan trọng để thúc đẩy tài chính toàn diện, qua đó phát triển hệ thống tài chính. Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của lĩnh vực dịch vụ tài chính, bảo vệ người tiêu dùng tài chính ngày càng được quan tâm, nhưng vẫn chưa nhận được nhiều sự chú ý, đặc biệt là liên quan đến việc hoàn thiện khung pháp lý. Bài nghiên cứu nhằm đánh giá khung pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng tài chính dựa trên tổng quan nghiên cứu cũng như các văn bản pháp luật hiện hành.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

66.450

67.170

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

66.450

67.150

Vàng SJC 5c

66.450

67.170

Vàng nhẫn 9999

54.950

55.950

Vàng nữ trang 9999

54.850

55.550


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 23.280 23.650 24.662 26.042 27.702 28.883 175,33 185,62
BIDV 23.335 23.635 24.859 26.062 27.830 28.912 173.60 182.70
VietinBank 23.290 23.650 24.488 26.123 28.168 29.178 176,97 184,92
Agribank 23.310 23.670 24.910 26.057 27.948 28.857 177,53 185,26
Eximbank 23.250 23.630 24.970 25.647 28.029 28.789 177,36 182,17
ACB 23.350 23.800 25.009 25.606 28.028 28.765 177,51 181,93
Sacombank 23.280 23.785 25.080 25.687 28.247 28.862 177,80 183,35
Techcombank 23.315 23.660 24.760 26.090 27.766 29.067 173,38 185,81
LienVietPostBank 23.310 23.910 24.880 26.235 28.154 29.108 176,00 187,77
DongA Bank 23.350 23.680 24.980 25.620 28.050 28.760 176,5 182,10
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
BIDV
0,10
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,90
7,20
7,20
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Cake by VPBank
1,00
-
-
-
6,00
-
6,00
8,90
-
9,00
9,00
ACB
-
1,00
1,00
1,00
5,00
5,10
5,10
6,70
6,90
7,10
7,80
Sacombank
-
-
-
-
5,40
5,50
5,60
7,40
7,50
7,70
7,90
Techcombank
0,30
-
-
-
5,90
5,90
5,90
7,30
7,30
7,30
7,30
LienVietPostBank
-
0,10
0,10
0,10
6,00
6,00
6,00
7,60
7,60
8,00
8,30
DongA Bank
1,00
1,00
1,00
1,00
5,50
5,50
5,50
7,90
7,95
8,00
8,30
Agribank
0,50
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Eximbank
0,20
1,00
1,00
1,00
5,60
5,70
5,80
6,30
6,60
7,10
7,50

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?