Hình thành tổ chức cho vay bán buôn vốn cho các tổ chức tài chính vi mô tại Việt Nam - Bài học kinh nghiệm từ một số quốc gia trên thế giới
10/04/2020 4.413 lượt xem
Tài chính vi mô (TCVM) đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, tuy nhiên, các tổ chức TCVM Việt Nam đang gặp khó khăn về huy động nguồn vốn thương mại và xây dựng năng lực thể chế. Do đó, cần hình thành một cơ chế cho vay bán buôn đối với ngành TCVM. Xét về các điều kiện thị trường, Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng thành lập một tổ chức cho vay bán buôn vốn TCVM. Từ kinh nghiệm Ấn Độ và Nepal, bài viết đề xuất một số khuyến nghị đối với Việt Nam để thành lập một tổ chức bán buôn vốn thành công trong lĩnh vực TCVM.
 
1. Đặt vấn đề
 
Phát triển tổ chức TCVM có thể được xem là một trong những giải pháp quan trọng thực hiện chiến lược xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Với sự phát triển mạnh của TCVM, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm mạnh từ 22% năm 2005 xuống còn 14,2% năm 2010 và 4,5% năm 2015 (Báo cáo giảm nghèo 2015). Số lượng các tổ chức cung cấp dịch vụ TCVM có khoảng hơn 100 tổ chức nhưng tính đến thời điểm này mới chỉ có 4 tổ chức chính thức được cấp phép hoạt động và 16 tổ chức bán chính thức, còn lại là phi chính thức. Vấn đề khó khăn nhất mà các tổ chức TCVM phải đối mặt trong quá trình phát triển là mở rộng nguồn vốn và nâng cao năng lực thể chế. Từ năm 2010, Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình, vì vậy không còn được ưu tiên nhận tài trợ từ các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức quốc tế. Với các nguồn vốn huy động trong nước, hoặc các tổ chức TCVM lại không đủ điều kiện vay vốn như nguồn vốn vay liên ngân hàng, hoặc các nguồn vốn huy động còn nhỏ lẻ, tính ổn định chưa cao như nguồn tiền gửi từ chính các khách hàng TCVM. Bên cạnh đó, bốn tổ chức chính thức tại Việt Nam đều chuyển đổi từ các chương trình dự án TCVM chưa lâu nên năng lực thể chế vẫn còn hạn chế. Để đáp ứng được nhu cầu vốn lớn, ổn định, đảm bảo tính thanh khoản tức thời, cần thiết phải hình thành một tổ chức cho vay bán buôn vốn riêng biệt cho các tổ chức TCVM tại Việt Nam. Ở nhiều quốc gia, Chính phủ và các nhà tài trợ phụ thuộc vào cơ chế bán buôn vốn để phát triển ngành TCVM khi nó ở giai đoạn còn non trẻ trong quá khứ (Pennell 1999, 1). Một tổ chức bán buôn vốn trong lĩnh vực TCVM (Microfinance wholesale Fund-MWF) đã chứng minh được đó là một công cụ hữu hiệu và đóng góp vào sự phát triển của thị trường TCVM trong nhiều trường hợp, đặc biệt ở những giai đoạn đầu của quá tình phát triển và ở những thị trường được phân khúc rõ ràng. Những ví dụ về sự thành công của MWFs được thiết lập ở các quốc gia Afghanistan, Bangladesh, Bosnia, and Pakistan (Duflos 2008, 1; Yunus 1999, 8-11). Bài nghiên cứu tập trung phân tích các điều kiện để hình thành một tổ chức cho vay bán buôn thành công tại Việt Nam và một số mô hình thành công tại một số nước trên thế giới, từ đó đề xuất một số khuyến nghị đối với Việt Nam.
 
2. Tổ chức cho vay bán buôn vốn TCVM 
 
Tổ chức cho vay bán buôn vốn (Microfinance wholesale Funds - MWF) là một tổ chức thứ cấp chuyển dòng vốn (tài trợ, vốn vay hoặc bảo lãnh) tới nhiều tổ chức TCVM bán lẻ; thường là trong một quốc gia hoặc một khu vực nhất định. Nguồn vốn tài trợ có thể được cung cấp cùng với hỗ trợ kỹ thuật để đạt được nhiều mục tiêu; hoạt động dưới nhiều hình thức pháp lý khác nhau; chủ yếu cung cấp các khoản vay nội tệ, nhưng cũng có thể cung cấp bảo lãnh vay vốn, đầu tư vốn chủ sở hữu, tài trợ để hỗ trợ chi phí hoạt động và hỗ trợ kỹ thuật (Duflos 2008, 1; Gonzalez-Vega 1998, 7-9). 
 
Về các chức năng của một MWF, nhiều nghiên cứu chỉ ra hai chức năng chính của một MWF là trung gian tài chính và chức năng xây dựng năng lực (Ahmed 2001, 5; Gonzalez-Vega 1998, 14; Pennell 1999, 2)(Bảng 1). 
 



 
3. Tiềm năng hình thành một MWF ở Việt Nam
 
Để hình thành một MWF, thị trường TCVM cũng cần phát triển đến một mức độ nhất định. Nói cách khác, Việt Nam cũng phải đảm bảo các yêu cầu về thị trường bao gồm (1) nhu cầu về một tổ chức bán buôn vốn; (2) có sẵn các tổ chức TCVM đủ điều kiện; (3) Lợi thế cạnh tranh của MWF trong thị trường; (4) khung pháp lý.
 
3.1. Nhu cầu về một tổ chức bán buôn vốn cho các tổ chức TCVM
 
Tài trợ vốn là một vấn đề lớn đối với tất cả các nhà cung cấp vốn cho lĩnh vực TCVM. Các tổ chức TCVM phi chính phủ hiện tại đều nhận thấy một vấn đề là rất khó để thu hút được các nguồn vốn thương mại và mở rộng các hoạt động kinh doanh. Hiện nay, ở Việt Nam, hai yếu tố dẫn đến nhu cầu bán buôn vốn TCVM tăng lên đó là:
 
Một là, số lượng các tổ chức TCVM có xu hướng gia tăng. Tính đến năm 2018, ngoài 4 tổ chức TCVM chính thức đã được cấp phép hoạt động, có 16 tổ chức TCVM bán chính và nhiều tổ chức khác có hoạt động TCVM. Trong đó, 4 tổ chức chính thức đều được chuyển đổi từ bán chính thức thành. Hoạt động của các tổ chức chính thức đang trong giai đoạn phát triển theo chiều sâu. Theo Lê Thị Lân (2010) thì lịch sử phát triển ngành TCVM ở Việt Nam trải qua 3 giai đoạn: (i) giai đoạn khởi đầu (trước những năm 1980), (ii) giai đoạn mở rộng nhanh (1990-2000) và (iii) giai đoạn theo chiều sâu (giai đoạn sau 2000 tới nay) tức là tăng trưởng mạnh cả về dư nợ cho vay và tiết kiệm. Bảng 2 thể hiện một số chỉ tiêu cơ bản của các tổ chức TCVM chính thức.
 
Bên cạnh đó, từ năm 2010 đến nay, NHNN liên tục ban hành một loạt các văn bản quy phạm pháp luật nhằm phát triển ngành TCVM bền vững và hỗ trợ phát triển các tổ chức TCVM hoàn thiện năng lực thể chế và có thể tiếp cận được với các nguồn vốn thương mại. Như vâỵ, các tổ chức bán chính thức hoàn toàn có thể phát triển thành các tổ chức chính thức. 
 
Hai là, khó khăn trong việc tăng huy động từ các nguồn vốn hiện tại. Trong cơ cấu vốn hiện nay của các tổ chức TCVM thì vốn từ tài trợ chiếm tỷ trọng lớn nhất 34% (hình 1). Tuy nhiên, nguồn vốn này đang có xu hướng giảm đi do các tổ chức TCVM chính thức vốn có lợi thế về vay vốn các tổ chức tài chính ngân hàng nước ngoài đang không thể vay và trả nợ do vướng mắc trong cơ chế vay vốn bằng ngoại tệ đối với các cá nhân và tổ chức nước ngoài. Đối với nguồn vốn vay từ các ngân hàng và tổ chức trong nước, số lượng các khoản vay được cấp cực kỳ hạn chế bởi vì các tổ chức TCVM không đáp ứng được các yêu cầu về tài sản bảo đảm hoặc các ngân hàng hoạt động hướng tới lợi nhuận nên thường cung cấp khoản vay sản xuất kinh doanh hơn là việc cho vay để cho vay lại. 
 
3.2. Sự có sẵn của các tổ chức TCVM đủ điều kiện
 
Sự sẵn có của một số lượng đủ các MFI (Microfinance Institution) đủ điều kiện để tài trợ bán buôn là rất quan trọng trong bối cảnh của Việt Nam. Trên thị trường TCVM, NHCSXH và Agribank vẫn chiếm thị phần áp đảo và lớn nhất trong khi các tổ chức TCVM chính thức và bán chính thức lại chiếm tỷ trọng nhỏ nhất (Bảng 3). Tuy nhiên, NHCSXH và Agribank, cũng như Quỹ tín dụng nhân dân không chỉ thực hiện cho vay TCVM mà họ tập trung vào các khoản vay hoàn toàn có tính chất thương mại đối với cá nhân, hộ gia đình, các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do đó, quy mô khoản vay trung bình của các tổ chức này có xu hướng lớn hơn rất nhiều so với giới hạn của TCVM và phương pháp cho vay cũng không áp dụng phương pháp cho vay của TCVM là không yêu cầu tài sản bảo đảm. Do đó, chỉ có các tổ chức TCVM chính thức và bán chính thức mới đáp ứng đủ các điều kiện của MWF với kỳ vọng tạo ra những tác động xã hội tích cực. 
 

Ngoài ra, sự bền vững về hoạt động và tài chính của các tổ chức TCVM cũng là một vấn đề quan trọng để có thể tham gia vào cơ chế bán buôn vốn với MWF. Bảng 4 trình bày các chỉ tiêu về lợi nhuận và bền vững của các tổ chức theo tư cách pháp nhân. 
 
Theo danh bạ TCVM Việt Nam từ 2013 - 2016, các tổ chức TCVM bán chính thức có xu hướng tự vững về tài chính tốt hơn các tổ chức chính thức (bảng 4). Nguyên nhân là do các tổ chức TCVM chính thức phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về trích lập dự phòng và các tỷ lệ đảm bảo an toàn nên các chỉ tiêu về lợi nhuận và bền vững sẽ thấp hơn. Tuy nhiên, điều đó cho thấy, các tổ chức TCVM bán chính thức cũng hoàn toàn có thể đáp ứng được các yêu cầu về tự vững hoạt động hay tài chính.
 
3.3. Lợi thế cạnh tranh 
 
Cơ chế cho vay bán buôn vốn ở Việt Nam có lợi thế cạnh tranh so với cơ chế trao đổi vốn trực tiếp giữa các nhà đầu tư/tài trợ và các tổ chức TCVM bởi một số lý do sau: 
 
Một là, có nhiều nhà cung cấp TCVM của các loại tổ chức khác nhau, tất cả đều có quy mô nhỏ và phân bố trải rộng, một số MFI nằm ở các thị trấn và làng mạc xa xôi hẻo lánh. Điều này dẫn đến một thị trường TCVM rất phân tán, khiến việc xác định các đối tượng đầu tư khó khăn.
 
Hai là, sự không đồng nhất của các tổ chức TCVM đối với tác động xã hội của họ làm phức tạp hơn nữa việc sàng lọc thị trường. Cần có sự thẩm định sâu rộng để xác định chính xác số các nhà cung cấp TCVM thực sự hoạt động vì người nghèo.

Ba là, tính minh bạch của ngành là thấp. Thông tin về hiệu suất của hầu hết các MFI Việt Nam là thưa thớt và chất lượng của các báo cáo tài chính thường có vấn đề.
 
Bốn là, các tổ chức TCVM Việt Nam có quy mô còn hạn chế so với các loại hình TCTD khác, do đó đầu tư trực tiếp vào các tổ chức TCVM riêng lẻ có xu hướng nhỏ. Điều này gây ra chi phí giao dịch cao cho mỗi đồng vốn đầu tư, đặc biệt là khi xem xét các chi phí sàng lọc và giám sát cao trong thị trường phân tán, không đồng nhất và không minh bạch. 
 
Năm là, khó khăn xảy ra đối với các mối quan hệ tài trợ trực tiếp của các tổ chức nước ngoài. Sự xa xôi của nhiều tổ chức TCVM, rào cản lan truyền và sự khác biệt về văn hóa giữa các tổ chức nước ngoài và các tổ chức TCVM Việt Nam hạn chế khả năng tiếp cận các cơ hội đầu tư. Ngoài ra, nhiều hạn chế và chính sách về đầu tư nước ngoài làm tăng chi phí giao dịch cho các tổ chức nước ngoài, làm giảm đáng kể hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các tổ chức TCVM.
 
3.4. Khung pháp lý 
 
Khung pháp lý của ngành TCVM Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể trong những năm qua. Quan trọng nhất, chủ trương của Chính phủ và NHNN cung cấp nền tảng pháp lý hợp lý cho việc thành lập các tổ chức TCVM theo hướng thương mại và cho các khoản đầu tư TCVM dựa trên nền tảng thương mại. Do đó, khung pháp lý của Việt Nam nói chung đáp ứng được khả năng thiết lập và vận hành một cơ sở bán buôn vốn cho ngành TCVM. (Sơ đồ 1)
 

Bảng 5: cho thấy các văn bản pháp lý cho ngành TCVM tương đối đầy đủ. Theo đó, hoạt động của các tổ chức này trở nên minh bạch hơn, chuyên nghiệp hơn và theo định hướng bền vững, tự chủ hơn. Như vậy, định hướng cho hoạt động của các TCTCVM Việt Nam không chỉ dừng lại ở tự vững về hoạt động, mà đã hướng tới tự vững về tài chính và tự chủ về hoạt động

 
4. Một số mô hình thành công của các quốc gia trên thế giới
 
Trên thế giới hiện có nhiều quốc gia đã thành công trong việc thành lập một tổ chức cho vay bán buôn vốn TCVM (MWFs). Bài viết trình bày 2 mô hình tiêu biểu đó là Công ty trách nhiệm hữu hạn Phát triển TCVM nông thôn (RMDC) ở Nepal và Quỹ SIDBI ở Ấn Độ.
 
Hai mô hình được trình bày trong các phụ lục 1 và phụ lục 2.
 
5. Một số đề xuất, khuyến nghị
 
Việc thiết kế và thực hiện một MWF như thế nào ảnh hưởng đến thành công của nó (Berger / Yonas / Lloreda 2003, 18). Từ việc nghiên cứu một số mô hình thành công ở Nepal và Ấn Độ, tác giả đề xuất bốn yếu tố quan trọng cần chú ý khi xây dựng một MWF bao gồm: (1) cơ quan thực thi, (2) tiêu chí đủ điều kiện và sự giám sát của các tổ chức TCVM đối tác, (3) điều khoản và điều kiện tài trợ vốn và (4) cung cấp hỗ trợ kỹ thuật.
 
Thứ nhất, liên quan đến cơ quan thực thi 
 
Để thúc đẩy các hoạt động hiệu quả và loại bỏ méo mó thị trường, cấu trúc của tổ chức cho vay bán buôn nên được định hướng thương mại nhất có thể, bao gồm sáu điểm đặc biệt:
 
Một là, quyền sở hữu của MWF cần phải rõ ràng. Về cơ bản, MWF có thể được sở hữu công khai (ví dụ như ngân hàng phát triển hoặc bộ phận của ngân hàng trung ương) hoặc tư nhân (ví dụ như một tổ chức phi chính phủ). MWF sở hữu tư nhân rất hiếm trong thực tế. Trong mọi trường hợp, quyền sở hữu cần được chỉ định rõ ràng cho một tổ chức duy nhất; đây là cơ sở để quản trị tốt và hoạt động minh bạch của quỹ bán buôn.
 
Hai là, MWF cần phải có một mục tiêu được xác định rõ ràng và ý thức mạnh mẽ về sứ mệnh. Mục tiêu cốt lõi của bất kỳ MWF nào là việc tạo ra một lĩnh vực TCVM độc lập và bền vững về tài chính trong một khoảng thời gian hợp lý.
 
Ba là, hiệu quả hoạt động tốt của MWF phụ thuộc vào sự sẵn có của đội ngũ nhân viên có tay nghề cao, cung cấp kỹ năng quản lý và lãnh đạo tốt và có thể áp dụng các hệ thống thông tin cần thiết. Việc thiếu quản lý và quản trị hệ thống là một trong những lý do chính khiến một số MWF hỗ trợ các đối tác MFI mà không giám sát đầy đủ các tiêu chuẩn có được tuân thủ đúng hay không.
 
Bốn là, MWF cần có một chiến lược phát triển dài hạn ngay từ đầu. MWF cần xác định mục tiêu rõ ràng MWF là dẫn đầu lĩnh vực TCVM đồng thời phải đạt được tính bền vững về tài chính, tức là độc lập về trợ cấp, có thể huy động các nguồn vốn thương mại để phục vụ việc mở rộng hoạt động. 
 
Năm là, cấu trúc của MWF cần đảm bảo có thể tài trợ liên tục và không bị gián đoạn cho các MFI trong một khoảng thời gian nhất định.
 
Thứ hai, các tiêu chí đủ điều kiện và giám sát của các tổ chức TCVM đối tác 
 
Tiêu chuẩn đủ điều kiện xác định các tổ chức nào được phép nhận tiền từ MWF. Chúng cho phép các quy trình lựa chọn minh bạch làm giảm tính dễ bị tổn thương của MWF đối với ảnh hưởng chính trị và tham nhũng và đảm bảo đầu tư khả thi về mặt thương mại của MWF (Berger / Yonas / Lloreda 2003, 24). Tiêu chuẩn đủ điều kiện bao gồm hai khía cạnh: điều kiện thể chế và tiêu chuẩn hiệu suất. Nó đảm bảo rằng các MFI có thể hoạt động khả quan hơn về hiệu quả tài chính và xã hội. Việc đình chỉ hoặc thu hồi khoản vay bán buôn cần phải là kết quả khi các MFI cá nhân không duy trì được các tiêu chuẩn hiệu suất được thoả thuận từ trước (Berger / Yonas / Lloreda 2003, 24; Yunus 1999, 9). 
 
Thứ ba, các điều khoản và điều kiện tài trợ vốn bán buôn 
 
Tổ chức cho vay bán buôn có thể thiết lập một loạt các điều khoản và điều kiện khi giải ngân khoản vay cho các đối tác MFI. Chúng bao gồm lãi suất, chi phí giao dịch và các điều kiện được áp dụng cho việc cho vay lại. 
 
Lãi suất được tính trên lãi suất thị trường, có thể phân bổ rủi ro cao hơn một chút so với thị trường cho các MFI nhỏ. Thách thức là đặt ra các mức lãi suất hấp dẫn nhưng đủ cao để tránh sự không khuyến khích các MFI tiếp cận các nguồn tài trợ thương mại.
 
Chi phí giao dịch của MWF cho 1 tổ chức TCVM bao gồm tất cả các chi phí liên quan đến các quy trình hành chính, sàng lọc khách hàng vay, giấy tờ,... có liên quan đến việc nhận tiền bán buôn. Chi phí giao dịch không được tính trong lãi suất liên ngân hàng; tuy nhiên, cần được tính toán khi thiết lập lãi suất cho các khoản vay bán buôn với các tổ chức TCVM đối tác. MWF thường ước tính chi phí giao dịch thấp hơn. Chi phí giao dịch nếu được tính cao quá mức trong một số trường hợp khiến các tổ chức TCVM giảm nhu cầu vay từ quỹ bán buôn ngay từ đầu. 
 
Thứ tư, hỗ trợ kỹ thuật 
 
Trong hầu hết các trường hợp ở các quốc gia, các tổ chức cho vay bán buôn cấp vốn đồng thời cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật cho các tổ chức TCVM. Phần lớn các thị trường TCVM mới và đang phát triển đa phần là cần xây dựng năng lực. Trong trường hợp này, các vấn đề sau đây cần phải được xem xét: Việc cung cấp hỗ trợ kỹ thuật bởi bản thân MWF có khả năng chiếm một phần đáng kể chi phí của tổ chức; do đó, nên hợp tác với các tổ chức chuyên cung cấp hỗ trợ kỹ thuật - đặc biệt là vì các tổ chức này thường có lợi thế so sánh trong việc xây dựng tổ chức và đảm bảo chất lượng dịch vụ tốt. Trong mọi trường hợp, nên yêu cầu các tổ chức TCVM chịu một phần chi phí hỗ trợ kỹ thuật bởi nó giúp đảm bảo rằng các hỗ trợ kỹ thuật được thiết kế tốt hơn, giá cạnh tranh hơn và được thực hiện nghiêm túc hơn bởi các tổ chức TCVM. Cuối cùng, thời gian hỗ trợ kỹ thuật là rất quan trọng: việc xây dựng năng lực cần được thực hiện trước khi tiến hành các khoản cấp tín dụng.
 
Tài liệu tham khảo:
Ahmed, Salehuddin. 2001. Creating Autonomous National and Sub-Regional Microcredit Funds. Palli Karma-Sahayak Foundation. 
Danh bạ các tổ chức TCVM Việt Nam 2013, 2014, 2015, 2016
Duflos, Eric. 2008. Local Wholesale Facilities for Microfinance. Consultative Group to Assist the Poor. Unpublished. 
Levy, Fred D. 2002. Apex Institutions in Microfinance, CGAP Occa- sional Paper No. 6. Consultative Group to Assist the Poor. 
Nguyễn Kim Anh, 2013, mức độ bền vững của các TCTCVM Việt Nam: thực trạng và một số khuyến nghị.
Pennell, John A. 1999. Apex Microfinance Institutions: A Review of their Record. United States Agency for International Development. 
Quyết định số 2195/QĐ-TTg ngày 06 tháng 12 năm 2011 về việc phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển hệ thống TCVM tại Việt Nam đến năm 2020.
Thông tư 03/2018/TT-NHNN quy định về cấp giấy phép hoạt động của TCTCVM.
Thông tư 10/2018/TT-NHNN quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận những thay đổi của TCTCVM.
Thông tư 18/2018/TT-BTC hướng dẫn một số điều về chế độ tài chính đối với TCTCVM.





ThS. Nguyễn Thị Vân

(TCNH số 10/2019)



 
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
Phát triển Quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp - Một số kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam
21/03/2024 1.852 lượt xem
Hệ thống hưu trí là một bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội với hai hệ thống hưu trí bắt buộc và hệ thống hưu trí tự nguyện. Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển quỹ hưu trí tự nguyện tại doanh nghiệp ở các nước trên thế giới rất quan trọng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
Dự báo kinh tế thế giới năm 2024 vẫn còn nhiều khó khăn
19/03/2024 3.402 lượt xem
Năm 2023, kinh tế thế giới phục hồi yếu và không đồng đều giữa các nền kinh tế chủ chốt. Hoạt động sản xuất, từ sản lượng công nghiệp đến hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế đều giảm.
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
Ứng phó với các thách thức nhân khẩu học: Chiến lược thích ứng của ngành Ngân hàng và gợi ý đối với Việt Nam
07/03/2024 3.354 lượt xem
Những thay đổi về nhân khẩu học toàn cầu, đặc biệt là xu hướng già hóa dân số đang đặt ra những thách thức và rủi ro lớn cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
Chính sách tiền tệ của Fed năm 2024 và một số khuyến nghị đối với Việt Nam
03/03/2024 4.511 lượt xem
Sau gần hai năm thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát và đưa lạm phát của nền kinh tế Hoa Kỳ về gần lạm phát mục tiêu là 2%, trong năm 2024, dự kiến Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ có những thay đổi lớn trong điều hành chính sách tiền tệ.
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
Chương trình đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán - Kinh nghiệm quốc tế và một số khuyến nghị
15/02/2024 4.647 lượt xem
Kiểm toán nội bộ có vai trò quan trọng trong việc tăng cường và bảo vệ giá trị của tổ chức thông qua chức năng cung cấp sự đảm bảo, tư vấn khách quan, chuyên sâu và theo định hướng rủi ro.
Ngân hàng Mizuho Việt Nam góp phần thúc đẩy hợp tác toàn diện kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
Ngân hàng Mizuho Việt Nam góp phần thúc đẩy hợp tác toàn diện kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
13/02/2024 4.685 lượt xem
Nhìn lại năm 2023, trên khắp Việt Nam và Nhật Bản đã diễn ra nhiều sự kiện kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Tháng 12/2023, Mizuho đã hỗ trợ Diễn đàn kinh tế Nhật Bản - Việt Nam tại Tokyo cùng với Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và các định chế tài chính khác.
Triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2024
Triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam năm 2024
26/01/2024 6.072 lượt xem
Sau những cú sốc mạnh trong năm 2022, hoạt động kinh tế toàn cầu có dấu hiệu ổn định vào đầu năm 2023.
Kinh nghiệm ứng dụng trí tuệ nhân tạo và tự động hóa quy trình bằng robot trong lĩnh vực ngân hàng trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam
Kinh nghiệm ứng dụng trí tuệ nhân tạo và tự động hóa quy trình bằng robot trong lĩnh vực ngân hàng trên thế giới và khuyến nghị cho Việt Nam
15/01/2024 6.528 lượt xem
Chuyển đổi số và sự bùng nổ công nghệ có ảnh hưởng lớn đến hành vi của khách hàng và hoạt động kinh doanh. Xu hướng thay đổi này dẫn đến quá trình số hóa trong các lĩnh vực như sản xuất, chuỗi cung ứng, tài chính và các dịch vụ phụ trợ khác.
Thẩm quyền để xử lí ngân hàng đang đổ vỡ một cách nhanh chóng và kịp thời - Nhìn từ kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
Thẩm quyền để xử lí ngân hàng đang đổ vỡ một cách nhanh chóng và kịp thời - Nhìn từ kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
05/01/2024 7.396 lượt xem
Trong năm vừa qua, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều vụ sụp đổ của những ông lớn trong lĩnh vực ngân hàng, điều này dấy lên hồi chuông cảnh báo về tính chất dễ đổ vỡ của ngân hàng. Việc một ngân hàng đổ vỡ thể hiện kỉ luật thị trường đối với những ngân hàng có hoạt động kinh doanh thiếu an toàn, lành mạnh nhưng lại tạo ra nhiều hệ lụy cho nền kinh tế, ảnh hưởng đến niềm tin của công chúng và người gửi tiền.
Phân tích lợi ích và rủi ro của tiền kĩ thuật số Ngân hàng Trung ương
Phân tích lợi ích và rủi ro của tiền kĩ thuật số Ngân hàng Trung ương
21/12/2023 8.589 lượt xem
Sự chuyển dịch nhanh chóng của hệ thống tiền tệ số toàn cầu đã khiến chính phủ các nước có phần lúng túng trong việc thích nghi với sự thay đổi mạnh mẽ trong hành vi chi tiêu và đầu tư của người dân.
Hợp tác của Trung Quốc với các nước châu Phi trong lĩnh vực ngân hàng và một số kinh nghiệm cho Việt Nam
Hợp tác của Trung Quốc với các nước châu Phi trong lĩnh vực ngân hàng và một số kinh nghiệm cho Việt Nam
20/12/2023 8.006 lượt xem
Trung Quốc là đối tác kinh tế, thương mại và đầu tư lớn nhất của châu Phi trong thời gian qua và sẽ tiếp tục trong thời gian tới. Bài viết này tóm lược sự phát triển quan hệ thương mại và đầu tư của Trung Quốc với các nước châu Phi trong thời gian hơn một thập kỉ vừa qua và việc Trung Quốc sử dụng lĩnh vực ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển đó.
Thực tiễn sử dụng tiền mã hóa trong tài trợ cuộc xung đột Nga - Ukraine và hàm ý cho Việt Nam
Thực tiễn sử dụng tiền mã hóa trong tài trợ cuộc xung đột Nga - Ukraine và hàm ý cho Việt Nam
16/11/2023 9.151 lượt xem
Bài viết khái quát quá trình triển khai huy động dòng vốn toàn cầu thông qua tiền mã hóa của Chính phủ Ukraine và Liên bang Nga; từ đó, đánh giá hiệu quả thực tiễn của việc sử dụng tiền mã hóa trong thanh toán xuyên biên giới, nguy cơ sử dụng tiền mã hóa trong các hoạt động rửa tiền, khủng bố và đưa ra hàm ý cho Việt Nam.
Quy định về hoạt động huy động vốn cộng đồng theo hình thức cổ phần tại Malaysia - Một số gợi mở cho Việt Nam
Quy định về hoạt động huy động vốn cộng đồng theo hình thức cổ phần tại Malaysia - Một số gợi mở cho Việt Nam
06/11/2023 9.074 lượt xem
Hoạt động huy động vốn cộng đồng đã trở nên phổ biến sau khủng hoảng tài chính toàn cầu, phương thức này đã phát triển nhanh chóng ở nhiều nước trên thế giới. Trong đó, hoạt động huy động vốn theo hình thức cổ phần (Equity - based Crowdfunding - ECF) là hình thức gọi vốn được các doanh nghiệp trong giai đoạn khởi đầu, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo rất ưa chuộng. Với ECF, các doanh nghiệp có thể huy động vốn từ cộng đồng thông qua một nền tảng trên Internet.
Phát triển ngân hàng hợp kênh: Kinh nghiệm quốc tế và một số đề xuất cho Việt Nam
Phát triển ngân hàng hợp kênh: Kinh nghiệm quốc tế và một số đề xuất cho Việt Nam
20/10/2023 10.281 lượt xem
Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật và việc sử dụng ngày càng nhiều điện thoại thông minh và máy tính bảng, xu hướng hợp kênh đã dần trở nên quan trọng đối với tập hợp đa dạng các dịch vụ ngân hàng. Hoạt động ngân hàng hợp kênh cung cấp đường dẫn đến các dịch vụ tài chính, ngân hàng thông qua nhiều kênh khác nhau (như chi nhánh ngân hàng, ATM, tổng đài điện thoại, eBanking, Internet Banking và Mobile Banking) một cách hợp nhất dựa trên ý tưởng “mọi thứ đều có thể được làm trên mọi kênh”.
Quản trị rủi ro số tại các ngân hàng thương mại: Kinh nghiệm của Ngân hàng Trung ương Đức và một số khuyến nghị
Quản trị rủi ro số tại các ngân hàng thương mại: Kinh nghiệm của Ngân hàng Trung ương Đức và một số khuyến nghị
04/10/2023 14.394 lượt xem
Khi thế giới ngày càng trở nên số hóa và kết nối, cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ tài chính, ngân hàng ngày một gia tăng, tạo động lực cho các ngân hàng thích ứng và thực hiện chuyển đổi số. Các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, dữ liệu lớn, công nghệ chuỗi khối... đang hỗ trợ và đẩy nhanh tốc độ của quá trình chuyển đổi số, giúp các ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đa dạng đáp ứng nhu cầu ngày một cao của khách hàng.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

78.000

80.000

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

78.000

80.000

Vàng SJC 5c

78.000

80.020

Vàng nhẫn 9999

68.000

69.300

Vàng nữ trang 9999

67.900

68.800


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,550 24,920 26,090 27,522 30,409 31,703 158.80 168.08
BIDV 24,625 24,935 26,276 27,495 30,531 31,832 159.54 168.07
VietinBank 24,512 24,932 26,321 27,616 30,837 31,847 160.42 168.37
Agribank 24,600 24,930 26,213 27,483 30,551 31,684 159.87 167.97
Eximbank 24,520 24,910 26,361 27,131 30,735 31,632 161.25 165.95
ACB 24,570 24,970 26,457 27,114 30,964 31,606 161.07 166.23
Sacombank 24,552 24,947 26,529 27,087 31,020 31,531 161.74 166.78
Techcombank 24,561 24,933 26,174 27,513 30,438 31,764 157.07 169.48
LPBank 24,380 25,100 26,095 27,625 30,866 31,814 159.15 170.67
DongA Bank 24,610 24,960 26,400 27,080 30,780 31,620 159.00 166.10
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?