Giải pháp tiếp cận tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
04/08/2021 14.572 lượt xem
Kinh nghiệm của các nước phát triển và Việt Nam trong thời kỳ hội nhập cho thấy, vai trò của DNNVV ở giai đoạn đầu phát triển kinh tế là vô cùng quan trọng.
Tuy nhiên, thời gian qua, ở Việt Nam, hoạt động của các DNNVV còn nhiều hạn chế, do đại dịch Covid-19, cộng đồng DNNVV gặp rất nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp đứng trước nguy cơ phá sản. Theo số liệu mới nhất Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa công bố, năm 2020, số lượng doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động tăng gần 10% so với cùng kỳ năm 2019. Một trong những nguyên nhân chính là do nguồn vốn cho đầu tư phát triển chưa đáp ứng đủ và kịp thời cho hoạt động kinh doanh. Theo đó, nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng đối với DNNVV luôn là mối quan tâm hàng đầu của Chính phủ, các bộ, ngành, DNNVV, cũng như các nhà quản trị ngân hàng thương mại (NHTM) tại Việt Nam.
 
Khả năng tiếp cận tín dụng ngân hàng đối với DNNVV tại Việt Nam
 
Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của các DNNVV là một tất yếu khách quan và cũng như các loại hình doanh nghiệp khác trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh, các doanh nghiệp này cũng sử dụng nguồn vốn tín dụng ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn và tối ưu hóa hiệu quả sử dụng vốn. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho các DNNVV đóng vai trò rất quan trọng, không những thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế, qua đó tác động trở lại thúc đẩy hệ thống ngân hàng, đổi mới chính sách tiền tệ, hoàn thiện các cơ chế, chính sách về tín dụng, thanh toán, ngoại hối… Bởi lẽ, tín dụng ngân hàng góp phần đảm bảo cho hoạt động của các DNNVV được liên tục; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn; góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu và góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNNVV.
 
Hiện nay, các dịch vụ của ngân hàng đã tiếp cận được với các doanh nghiệp nói chung và các DNNVV nói riêng. Các ngân hàng đang nỗ lực kích cầu thị trường thông qua các chương trình ưu đãi lãi suất, tiện ích miễn phí hoặc miễn giảm dịch vụ… hướng tới doanh nghiệp, nhất là DNNVV. Điều này sẽ tiếp thêm nhiều nguồn vốn giá rẻ trong bối cảnh sản xuất - kinh doanh đang hết sức khó khăn như hiện nay. Các DNNVV với đại đa số là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cùng với đặc thù quy mô nhỏ, ít tài sản bảo đảm, phân tán và kéo theo đó là hàng loạt các đặc điểm về quản lý doanh nghiệp cũng đã tạo nên các đặc trưng trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng.
 
Xác định tiềm năng phát triển từ DNNVV, nhiều năm nay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) đã đẩy mạnh cho vay các DNNVV. Dư nợ DNNVV tăng dần qua các năm, mức tăng trưởng trung bình 5 năm vừa qua là 4,36%/năm.
 
Agribank là một trong những ngân hàng đầu tiên đưa ra chương trình hỗ trợ vốn cho DNNVV, tạo được sự chú ý khi dành các mức lãi suất thấp hơn nhiều so với mức lãi suất cho vay thông thường. Agribank triển khai lãi suất cho vay theo mặt bằng mà Chính phủ, NHNN chỉ đạo đối với 5 lĩnh vực ưu tiên, trong đó có DNNVV với mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa 4,5%/năm, lãi suất cho vay trung, dài hạn 
 
7,5%/năm, thấp hơn rất nhiều so với lãi suất cho vay thông thường để tạo cơ hội cho khách hàng có thể mở rộng đầu tư theo chiều sâu, nâng cao năng lực cạnh tranh. Không chỉ ưu đãi lãi suất, Agribank còn chủ trương áp dụng cơ chế, điều kiện thông thoáng để thu hút khách hàng mới tiềm năng, giúp DNNVV tiếp cận vốn vay ngân hàng được dễ dàng, thuận tiện. Đồng thời, Agribank tích cực triển khai kết nối ngân hàng - DNNVV. Đây là kênh tiếp cận vốn nhanh, hiệu quả góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh. Ngoài ra, khi sử dụng các chương trình này của Agribank, DNNVV còn được miễn, giảm phí và giá các sản phẩm bán chéo như: phí thanh toán, phí bảo hiểm, phí mở tài khoản tiền gửi thanh toán, phí phát hành thẻ ATM, Internet Banking… Chính vì vậy, nhiều chương trình đã thực sự tạo ra những cú hích lớn góp phần vào tăng trưởng kinh tế đối với DNNVV.
 
Không chỉ riêng Agribank, nhiều định chế tài chính khác như VietinBank, Vietcombank, BIDV, MB, VPBank, TPBank… cũng đã triển khai nhiều chương trình ưu đãi tín dụng cho DNNVV. Lãi suất cho vay theo đó đã được kéo xuống mức thấp nhất trong vòng vài năm trở lại đây, vượt qua kỳ vọng của nhiều doanh nghiệp và chuyên gia. VPBank cũng đã giảm mạnh lãi suất cho vay so với biểu lãi suất hiện hành, trong đó, mức giảm cao nhất cho DNNVV lên tới 2%/năm. Bên cạnh đó, để tìm kiếm các giải pháp tài chính an toàn cho cả ngân hàng và DNNVV, VPBank cũng triển khai đồng bộ nhiều chương trình hỗ trợ khách hàng khác nhau, từ miễn, giảm phí, hạ lãi suất, đưa các sản phẩm dịch vụ tích hợp nhằm tiết kiệm chi phí, thời gian cho doanh nghiệp, hay tăng cường tư vấn tài chính cho các dự án kinh doanh…
 
Để hỗ trợ doanh nghiệp, Agribank có một bộ phận riêng nhằm hỗ trợ tối đa cho DNNVV trong quá trình vay vốn tại ngân hàng. Bộ phận này có nhiệm vụ cập nhật, cung cấp đầy đủ các thông tin tin cậy về tài chính ngân hàng, các thông tin liên quan đến lĩnh vực hoạt động sản xuất - kinh doanh của các DNNVV qua một số kênh như: Tư vấn trực tiếp qua cán bộ quan hệ khách hàng; thông qua các hội nghị, hội thảo về giải pháp tín dụng dành cho DNNVV.

Tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn lực quan trọng để phát triển DNNVV
 
Một trong những biện pháp nữa giúp DNNVV tiếp cận nguồn vốn là việc đưa Quỹ Phát triển DNNVV vào hoạt động một cách mạnh mẽ. Quỹ tập trung vào các DNNVV có tiềm năng phát triển, có dự án, phương án kinh doanh khả thi và DNNVV nằm trong diện đối tượng ưu tiên như doanh nghiệp phụ trợ, doanh nghiệp chế biến nông sản, doanh nghiệp xuất khẩu... Quỹ này cho DNNVV vay vốn với lãi suất ưu đãi so với thị trường, lãi suất sẽ được tính theo lãi suất trung bình của các NHTM lớn. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Theo đó, các địa phương thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng để cấp bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV, bảo đảm nguồn vốn vay hỗ trợ DNNVV sản xuất, kinh doanh. Thủ tướng đã giao nhiệm vụ bảo lãnh tín dụng cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Ðây là những giải pháp thiết thực, tạo điều kiện cho DNNVV phát triển. 
 
Một số chi nhánh NHTM đã phối hợp, hợp tác với các định chế tài chính khác trên cùng địa bàn góp vốn cho Quỹ bảo lãnh tín dụng DNNVV để tạo thuận lợi DNNVV tiếp cận vốn. Theo đó, các ngân hàng phối hợp chặt chẽ với Quỹ bảo lãnh tín dụng để tạo điều kiện cho các DNNVV trên địa bàn tiếp cận nguồn vốn vay thông qua bảo lãnh tín dụng của Quỹ, rút ngắn thời gian thẩm định và xem xét cho vay, giảm khối lượng công việc trong khâu thẩm định đối với các hồ sơ vay vốn. 
 
Bên cạnh đó, Chính phủ đã có những giải pháp hỗ trợ cho DNNVV như triển khai những chính sách, chương trình hỗ trợ vốn cho các DNNVV, bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ tín dụng... nhất là việc tạo điều kiện cho DNNVV tham gia vào các dự án của Chính phủ. Các chính sách này nhìn chung đã bao quát mọi hoạt động của doanh nghiệp, DNNVV phải biết nắm bắt cơ hội, tự xây dựng kế hoạch kinh doanh và nâng cao năng lực quản trị để có thể tiếp nhận được những điều kiện tốt và phù hợp với mình. 
 
Tuy nhiên, chỉ có một số DNNVV tiếp cận được với chính sách này. Phần lớn các DNNVV còn lại đều gặp trở ngại vì chưa đáp ứng đầy đủ các điều kiện, thủ tục vay vốn của ngân hàng (tài sản đảm bảo, tỷ lệ vốn tự có, chứng minh khả năng tài chính, kế hoạch quản lý dòng tiền…). Vì thế, thời gian qua đã có hàng chục nghìn DNNVV phải tạm ngừng hoạt động hoặc giải thể do không đủ nguồn lực tài chính để tiếp tục thực hiện kế hoạch hoạt động kinh doanh. Thực trạng tình hình hoạt động của các DNNVV như trên là do một số nguyên nhân sau:
 
Một là, hạn chế trong tiếp cận thông tin, trình độ nhân lực, quản trị dẫn tới kỹ năng hoạch định, xây dựng phương án sản xuất - kinh doanh của các DNNVV thiếu tính khả thi và chưa có kế hoạch ứng phó với biến động của giá cả, thị trường… Tài sản bảo đảm của các DNNVV cũng chưa đáp ứng được các yêu cầu của tổ chức tín dụng (TCTD) như tính pháp lý của tài sản chưa rõ ràng, tài sản không khả mại, giá trị bảo đảm thấp…
 
Hai là, doanh nghiệp quy mô nhỏ với nguồn lực tài chính còn hạn chế, chưa đủ bảo đảm tài chính dự phòng trong kế hoạch năm, kế hoạch dự trữ nguyên vật liệu cho sản xuất không khả thi, vì vậy, chưa thực sự chủ động đàm phán được các mức chiết khấu như các đối tượng mua số lượng lớn. Việc lựa chọn nguyên vật liệu đầu vào có chất lượng cũng gặp phải những khó khăn nhất định, dẫn đến chất lượng của sản phẩm đầu ra không ổn định. 
 
Ba là, hệ thống báo cáo tài chính chưa được các DNNVV thực sự quan tâm nên số liệu phản ánh chưa chính xác, chưa được kiểm toán theo quy định. Vì thế, các TCTD thiếu thông tin khi phân tích, đánh giá và thẩm định đề nghị xin vay của DNNVV, ảnh hưởng đến việc đưa ra các quyết định cho vay cũng như chất lượng khoản vay. Hiện nay, 65,2% DNNVV trong diện điều tra có nhu cầu vay vốn của ngân hàng, tỷ lệ này năm 2019 là 57,3% nhưng mới chỉ có 30% DNNVV tiếp cận được vốn từ ngân hàng, còn lại phải sử dụng vốn tự có hoặc vay từ các nguồn khác với chi phí vốn cao. 
 
Bốn là, do nợ xấu gia tăng và năng lực cạnh tranh của DNNVV còn yếu kém; báo cáo tài chính thiếu minh bạch, không có nhiều tài sản bảo đảm tốt nên các NHTM phòng ngừa rủi ro, xem xét chặt chẽ và kỹ lưỡng hơn rất nhiều đối với những khoản cấp tín dụng mới; ngân hàng chưa mạnh dạn tăng trưởng tín dụng với đồng loạt các DNNVV mà chỉ tập trung với một số doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh tốt. Hơn nữa, bản thân các TCTD cũng gặp khó khăn trong việc cân đối nguồn vốn trước khó khăn chung của nền kinh tế, nguồn vốn huy động chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn nhưng nhu cầu vay vốn trung, dài hạn của các DNNVV là rất lớn. Đây cũng là một trong những lý do dẫn đến việc các NHTM thắt chặt các điều kiện vay vốn.
 
Giải pháp và kiến nghị nâng cao tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng đối với DNNVV để phát triển sản xuất - kinh doanh thời gian tới
 
Với điều kiện của nền kinh tế nước ta, DNNVV giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong việc đóng góp vào mức tăng trưởng GDP, đáp ứng nhu cầu việc làm và các vấn đề xã hội khác. Tuy nhiên, so với các doanh nghiệp lớn, DNNVV có nhiều đặc điểm khác biệt và đặc điểm này có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tiếp cận vốn của DNNVV. Trong thời gian tới, để các DNNVV tiếp cận được vốn tín dụng ngân hàng dễ dàng hơn, tác giả đề xuất một số giải pháp và kiến nghị như sau:

Đối với NHTM

Thứ nhất,nâng cao năng lực của các ngân hàng như năng lực tài chính, năng lực quản lý, phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến.
 
Phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng công nghệ tiên tiến bao gồm cả công nghệ quản lý cũng như hạ tầng cơ sở cung cấp dịch vụ là hai yếu tố nền tảng trong việc nâng cao năng lực quản lý của các NHTM Việt Nam. Hiện nay, một số ngân hàng như ACB, Techcombank… lựa chọn cách thức hợp tác với các ngân hàng nước ngoài (các ngân hàng nước ngoài trở thành nhà đầu tư chiến lược tại các ngân hàng) để nâng cao năng lực toàn diện của ngân hàng mình.
 
Thứ hai, huy động và đáp ứng đủ nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn, mở rộng tín dụng cho DNNVV. Huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm, quyết định đến việc hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh. Có tăng trưởng nguồn vốn ổn định thì mới được tăng trưởng tín dụng. Chú trọng huy động nguồn vốn ổn định từ dân cư và các tổ chức kinh tế. Để đáp ứng được nhu cầu vốn kinh doanh, các NHTM cần đề cao việc đa dạng các hình thức huy động vốn, trong đó cung cấp kịp thời các sản phẩm tiền gửi cho khách hàng với các hình thức đa dạng, phong phú, nhất là các loại sản phẩm huy động vốn (đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn) trên nền tảng công nghệ hiện đại và mang nhiều tiện ích cho khách hàng. Cần căn cứ từng đối tượng khách hàng, từng địa phương mà thiết kế danh mục các hình thức huy động khác nhau cho phù hợp; tăng cường hợp tác, kết nối thanh toán với các tổ chức, doanh nghiệp lớn; tăng cường huy động vốn tại các đô thị, thành phố để chuyển tải về nông thôn, đảm bảo các yêu cầu vốn để phục vụ DNNVV thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau…
 
Thứ ba, rút ngắn thời gian thẩm định tín dụng và đơn giản hóa thủ tục vay vốn cho các DNNVV. Mặt khác, các ngân hàng cần tiếp tục hoàn thiện quy trình vay vốn của mình để có sức hấp dẫn DNNVV tiềm năng.

Thứ tư, các NHTM cần tăng cường vai trò tư vấn cho DNNVV.

Tăng cường vai trò tư vấn cho khách hàng về các cách tiếp cận dịch vụ, tiện ích của ngân hàng một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Khả năng có thể thực hiện cung cấp vốn vay một cách hiệu quả phụ thuộc rất lớn vào quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Để đảm bảo an toàn và hiệu quả đối với khoản vay, ngân hàng nên thường xuyên theo dõi, đánh giá tình hình tài chính cũng như các hoạt động của khách hàng. Điều quan trọng là ngân hàng đóng vai trò tư vấn về quản lý tài chính, lập hồ sơ và lập dự án vay vốn ngân hàng để khách hàng dễ tiếp cận được vốn vay ngân hàng, sử dụng vốn vay hiệu quả, đó cũng là cách tốt nhất đảm bảo người vay trả nợ đúng hạn. Nếu làm tốt điều này, không những uy tín của ngân hàng nâng lên, mà ngân hàng còn trở thành người bạn đồng hành đáng tin cậy của khách hàng. Trong quan hệ vay vốn, việc tạo lập được quan hệ lâu dài, trên tinh thần tương hỗ lẫn nhau giữa ngân hàng và khách hàng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cả hai phía, vừa thúc đẩy mở rộng cho vay một cách hiệu quả của ngân hàng, vừa đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn cho DNNVV.

Thứ năm, xây dựng mục tiêu tín dụng và chính sách lãi suất đối với DNNVV. Hoàn thiện quy trình thẩm định tín dụng chặt chẽ và đảm bảo thực hiện đúng quy trình trước khi giải ngân. Đồng thời, giám sát tình hình sử dụng vốn vay của DNNVV sau khi giải ngân.

Đối với DNNVV
 
Một là, để nắm bắt thời cơ, DNNVV phải tự xây dựng kế hoạch kinh doanh để có thể tiếp nhận được những điều kiện tốt và phù hợp, tăng năng lực cạnh tranh của DNNVV. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, bên cạnh các chính sách của Chính phủ, cơ chế cho vay hoặc hỗ trợ vốn của các TCTD, yếu tố quyết định vẫn là sự nỗ lực của bản thân DNNVV. Các DNNVV cần đánh giá lại chiến lược sản phẩm, marketing, nhân lực nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và đổi mới công nghệ tương ứng, tích cực, chủ động tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tài chính, ngân hàng đặc biệt là các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ về quản lý tài chính, lập dự án kinh doanh.
 
Hai là, các DNNVV cần chấp hành nghiêm chỉnh Luật Doanh nghiệp, Luật Kế toán và các quy định về tài chính, kế toán của Nhà nước, thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm, cung cấp thông tin báo cáo chính xác và kịp thời cho các TCTD khi có yêu cầu. Đây được coi là cơ sở quan trọng để ngân hàng đầu tư vốn.
 
Các DNNVV sử dụng vốn vay ngân hàng đúng mục đích, tuân thủ các nội dung trong hợp đồng tín dụng; phối hợp với ngân hàng trong việc thẩm định, kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay; thiện chí, hợp tác với ngân hàng trong việc xử lý tài sản bảo đảm.
 
Ba là, các DNNVV cần đổi mới và nâng cao trình độ quản trị điều hành doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế; không ngừng đổi mới công nghệ, nắm bắt thông tin, chú trọng các sản phẩm hàng hóa làm ra phải có tính cạnh tranh và thị trường tiêu thụ; tăng cường bổ sung nguồn vốn chủ sở hữu; nâng cao trình độ và kỹ năng nghề nghiệp đối với nhân viên.
 
Đối với Ngân hàng Nhà nước 
 
Một là, chỉ đạo các NHTM dành một phần vốn tín dụng cho các DNNVV hoạt động trong các lĩnh vực xuất nhập khẩu, sản xuất - kinh doanh những mặt hàng thiết yếu, sử dụng nhiều lao động, tham gia vào các công trình quốc gia quan trọng.

Hai là, nâng cao hơn nữa vai trò của Trung tâm Thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam trong việc cung cấp thông tin tín dụng đối với NHTM. 
 
Để thúc đẩy các DNNVV tiếp cận nguồn vốn tín dụng phát triển sản xuất - kinh doanh, hạn chế “tín dụng đen” thì việc khắc phục tâm lý e ngại, tình trạng thiếu hiểu biết của một bộ phận DNNVV đối với khả năng tiếp cận tín dụng và lập hồ sơ vay tín dụng cũng là cần thiết và cấp bách. 
 
Đối với Hiệp hội DNNVV 
 
Một là, để hỗ trợ DNNVV phát triển, cần thay đổi cơ chế, chính sách đối với DNNVV mạnh mẽ hơn nữa. Hiệp hội DNNVV nên chủ động tìm hiểu những khó khăn của DNNVV, từ đó, kiến nghị Quốc hội, Chính phủ về các vấn đề của các DNNVV trong tình hình hiện nay. 
 
Hai là, sớm thực hiện việc phân tích, đánh giá, phân loại các DNNVV trong Hiệp hội để ngân hàng có chính sách hỗ trợ phù hợp đối với từng nhóm khách hàng.
 
Ba là, thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng trình độ cho chủ DNNVV và cán bộ quản lý DNNVV, hỗ trợ DNNVV xây dựng chiến lược phát triển dài hạn, hướng dẫn chế độ hạch toán đúng quy định; cung cấp các dịch vụ kinh doanh. Nên hướng mạnh vào việc bổ túc tri thức quản trị kinh doanh cho doanh nhân, đa dạng hóa hình thức tôn vinh doanh nhân, DNNVV xuất sắc, có nhiều đóng góp cho sự phát triển, tạo nên động lực cho DNNVV củng cố vị thế trong cộng đồng.
 
Bốn là, tăng cường năng lực tiếp cận thông tin chính sách pháp luật cho khối DNNVV, như xây dựng trang thông tin điện tử về hỗ trợ pháp lý cho DNNVV; xây dựng Quỹ hỗ trợ DNNVV làm cầu nối cho TCTD và DNNVV tiếp cận nhau, hỗ trợ DNNVV khai thác thị trường đầu ra, chủ động gửi danh sách các DNNVV cần vay vốn để các TCTD có thể tiếp cận nhanh và hiệu quả.

Đối với Chính phủ
 
Chính phủ cần tiếp tục chỉ đạo thực hiện các giải pháp hỗ trợ, giảm thuế, lãi suất tín dụng thấp hơn để các DNNVV được tiếp sức, vượt qua khó khăn do đại dịch Covid-19 và có cơ hội phát triển; đồng thời, hoàn thiện khung pháp lý cho DNNVV hoạt động. Các cấp chính quyền, ngành chức năng cần quan tâm đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại; tích cực cải cách thủ tục hành chính; thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư; nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, cung cấp nhân lực cho DNNVV; bảo đảm an toàn, an ninh cho DNNVV, tạo ra môi trường thông thoáng để các DNNVV hoạt động. Các văn bản chính sách liên quan DNNVV phải được thực hiện theo hướng tạo những điều kiện thông thoáng nhất cho DNNVV hoạt động, như trong lĩnh vực đấu thầu, đất đai, thuế, đầu tư, phá sản DNNVV... Giảm bớt các quy định, giấy phép can thiệp hành chính vào thị trường.
 
Tóm lại, DNNVV mang lại sự năng động, thúc đẩy kinh tế phát triển và cải thiện đời sống người dân, góp phần quan trọng trong việc khai thác tiềm năng kinh tế của đất nước, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, giảm bớt sự chênh lệch về kinh tế giữa các vùng, miền. Để có thể phát triển sản xuất - kinh doanh, DNNVV cần huy động thêm vốn và ngân hàng là một kênh chủ chốt đáp ứng nhu cầu này. Trong quá trình tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, khó khăn của các DNNVV bắt nguồn từ cả khía cạnh chính sách, quy định của Chính phủ, lẫn trong thực tế hoạt động của bản thân DNNVV. Vì vậy, bên cạnh các chính sách của Chính phủ, cơ chế cho vay hoặc hỗ trợ vốn của các TCTD, yếu tố quyết định vẫn là sự nỗ lực của bản thân DNNVV.■
 
Tài liệu tham khảo:
1. http://agribank.com.vn
2. http://dangkykinhdoanh.gov.vn
3. http://www.moj.gov.vn
4. http://www.mpi.gov.vn
5. http://www.nhandan.com.vn
6. http://www.vpbank.com.vn
7. http://vinasme.vn
8. http://www.vietinbank.vn

ThS. Nguyễn Quốc Hưng
Giám đốc Agribank Chi nhánh tỉnh Bắc Giang
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
Hoàn thiện các quy định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài
17/04/2024 377 lượt xem
Trong thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật để thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nhà đầu tư trong nước nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao vị thế, hình ảnh của nước ta trên trường quốc tế.
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính -  Một số khuyến nghị cho Việt Nam
Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định tài chính - Một số khuyến nghị cho Việt Nam
12/04/2024 855 lượt xem
Tài chính toàn diện có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của một quốc gia, góp phần thúc đẩy và mở rộng khả năng tiếp cận tài chính của dân số, qua đó khuyến khích tiết kiệm và đầu tư đối với hộ gia đình và doanh nghiệp, tạo cơ hội phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ, mở rộng khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm và thu nhập, góp phần hạn chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính.
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
16/03/2024 3.273 lượt xem
Năm 2024, kinh tế thế giới dự báo tiếp tục khó khăn dưới tác động của điều kiện tài chính thắt chặt, mặt bằng lãi suất còn cao, xung đột địa chính trị, rủi ro tài chính gia tăng, lạm phát có dấu hiệu chậm lại nhưng vẫn cao…; ở trong nước, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức do bối cảnh cầu thế giới, thương mại quốc tế chậm phục hồi, bảo hộ thương mại gia tăng; sản xuất, kinh doanh tiếp tục khó khăn, mức độ hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn tương đối thấp; những khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản vẫn chưa được xử lý căn cơ, đòi hỏi các cấp, bộ, ngành Trung ương và địa phương tiếp tục triển khai nhiều giải pháp tổng thể hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
15/03/2024 2.879 lượt xem
Ngày 07/11/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước, có hiệu lực thi hành từ ngày 22/12/2023.
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
14/03/2024 5.774 lượt xem
Giai đoạn từ năm 2022 đến nay, trước bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) liên tục tăng lãi suất, NHNN đã điều hành tỷ giá tương đối ổn định, đặc biệt là tỷ giá với các ngoại tệ như Đô la Mỹ, Euro và các ngoại tệ khác tại các quốc gia có quan hệ giao thương đáng kể với Việt Nam nhằm duy trì ổn định vĩ mô trong nước, hỗ trợ đầu tư, sản xuất phát triển.
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
13/03/2024 3.038 lượt xem
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân đối với Dự thảo Nghị định quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng (sau đây gọi tắt là Dự thảo Nghị định).
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
06/03/2024 3.123 lượt xem
Một trong những sứ mệnh của chuyển đổi số là phổ cập, cá nhân hóa dịch vụ số như giáo dục, y tế, ngân hàng để hướng tới người dân. Ngành Ngân hàng luôn phấn đấu tạo điều kiện thuận lợi cho người dân sử dụng dịch vụ trên môi trường điện tử, trong đó có hướng đến phổ cập tài chính tới vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
05/03/2024 8.088 lượt xem
Ngày 18/01/2024, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 với 15 chương, 210 điều. Luật Các TCTD năm 2024 đã bám sát quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước; khắc phục các vướng mắc, bất cập hiện tại; tham khảo thông lệ, kinh nghiệm quốc tế và phù hợp chiến lược phát triển ngành Ngân hàng. Xuất phát từ đó, bài viết tập trung làm rõ những điểm mới, nổi bật của Luật này.
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/02/2024 3.078 lượt xem
Trải qua hơn 10 năm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, công tác thống kê tiền tệ phục vụ điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có nhiều bước tiến đáng kể.
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
24/02/2024 4.076 lượt xem
Năm 2023 vừa qua đã chứng kiến những biến động mạnh mẽ trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) trên thế giới, nổi bật là việc các ngân hàng trung ương (NHTW) liên tục tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát.
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
13/02/2024 3.036 lượt xem
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các nước đã thừa nhận sự cần thiết của chính sách an toàn vĩ mô (ATVM) trong ổn định tài chính và đặt chính sách ATVM vào vị trí trung tâm của sự tương tác giữa các chính sách kinh tế vĩ mô với chính sách an toàn vi mô.
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
11/02/2024 3.738 lượt xem
Nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2023 được triển khai trong bối cảnh tình hình thế giới phát sinh nhiều biến động, diễn biến phức tạp, khó dự báo. Căng thẳng địa chính trị, tranh chấp giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, xung đột giữa Nga - Ukraine và Israel - Hamas diễn biến bất ngờ, lạm phát và giá nhiên liệu tăng cao khiến đà phục hồi của kinh tế thế giới chậm lại.
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
07/02/2024 3.318 lượt xem
Thời gian qua, tín dụng tiêu dùng phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 20%/năm, từng bước góp phần giúp người dân, đặc biệt là những người yếu thế tiếp cận được các dòng vốn chính thức; hạn chế tình trạng tín dụng đen.
Bài toán tín dụng năm 2023 và lời giải cho năm 2024
Bài toán tín dụng năm 2023 và lời giải cho năm 2024
31/01/2024 3.629 lượt xem
Năm 2023 đã đi qua với nhiều câu chuyện kinh tế nổi bật và một trong những vấn đề thu hút được sự quan tâm rất lớn trong hoạt động của ngành Ngân hàng là vấn đề tăng trưởng tín dụng.
Triển khai Đề án Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025: Kết quả và giải pháp, định hướng thời gian tới
Triển khai Đề án Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025: Kết quả và giải pháp, định hướng thời gian tới
29/01/2024 4.729 lượt xem
Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025 (ban hành theo Quyết định số 1813/QĐ-TTg ngày 28/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ - Quyết định 1813) được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đầu mối phối hợp với các bộ, ngành, đơn vị liên quan triển khai thực hiện được hơn hai năm, đã góp phần tạo sự chuyển biến sâu, rộng về TTKDTM trong nền kinh tế, thúc đẩy sử dụng các phương tiện, dịch vụ TTKDTM.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.800

83.800

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.800

83.800

Vàng SJC 5c

81.800

83.820

Vàng nhẫn 9999

74.800

76.700

Vàng nữ trang 9999

74.700

76.000


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,100 25,440 26,252 27,714 30,724 32,055 157.77 167.11
BIDV 25,130 25,440 26,393 27,618 30,763 32,067 158.12 166.59
VietinBank 25,090 25,443 26,504 27,799 31,154 32,164 160.64 168.59
Agribank 25,100 25,440 26,325 27,607 30,757 31,897 159.58 167.50
Eximbank 25,040 25,440 26,425 27,239 30,914 31,866 160.82 165.77
ACB 25,110 25,442 26,596 27,279 31,230 31,905 161.07 166.37
Sacombank 25,170 25,420 26,701 27,261 31,332 31,835 162.03 167.05
Techcombank 25,192 25,442 26,362 27,707 30,760 32,094 157.36 169.78
LPBank 24,960 25,440 26,088 27,611 30,970 31,913 158.36 169.76
DongA Bank 25,170 25,440 26,570 27,260 31,080 31,940 159.20 166.40
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?