Các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là đối tượng thường xuyên có nhu cầu huy động vốn để phát triển hoạt động, mở rộng sản xuất, kinh doanh nhưng lại gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận vốn từ các ngân hàng. Những nguyên nhân từ phía doanh nghiệp có thể kể đến như thiếu thông tin lịch sử tín dụng, phương án sử dụng vốn rõ ràng, tài sản bảo đảm… Do đó, các chính sách thúc đẩy tín dụng cho DNNVV đã được nghiên cứu và đề xuất khá nhiều; trong số đó, chương trình bảo lãnh tín dụng của Chính phủ đã được áp dụng thành công tại nhiều quốc gia, cũng như được triển khai mạnh mẽ hơn trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19. Bài viết sẽ đi sâu vào tìm hiểu các chương trình bảo lãnh tín dụng (Credit Guarantee Scheme - CGS) cho DNNVV, kinh nghiệm triển khai của các nước trên thế giới từ trước và trong dịch bệnh Covid-19 đến nay, cũng như phân tích thực trạng tại Việt Nam để đưa ra các đề xuất trong tương lai.
1. Chương trình bảo lãnh tín dụng của Chính phủ
Theo nghiên cứu của Quỹ đầu tư châu Âu - European Investment Fund (EIF) năm 2015, các DNNVV chủ yếu dựa vào nguồn vốn ngân hàng để huy động vốn và ít có hiểu biết về các nguồn vốn khác. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại (NHTM) có xu hướng tập trung nhiều hơn vào cho vay, tài trợ nguồn vốn cho các doanh nghiệp lớn. Bởi vì các doanh nghiệp lớn thường có rủi ro vỡ nợ thấp hơn và tình hình tài chính, thông tin kế toán minh bạch và rõ ràng hơn so với các DNNVV (Naoyuki Y. và Farhad T., 2016). Chính vì vậy, CGS được xem là giải pháp quan trọng giúp tháo gỡ khó khăn trong tiếp cận vốn của DNNVV và góp phần khơi thông nguồn vốn cho nền kinh tế nói chung.
Theo Yoshino và Taghizadeh - Hesary (2016), CGS là công cụ hữu hiệu thu hẹp khoảng cách giữa cung và cầu trong tài chính của các DNNVV. Đồng thời, CGS hỗ trợ hoạt động cho vay thông qua cách chia sẻ rủi ro liên quan khoản vay, giúp tăng số tiền có thể cho vay đối với một doanh nghiệp (Zander và cộng sự, 2013). CGS được xem là giải pháp do Chính phủ cung cấp để khắc phục các vấn đề về huy động nguồn vốn cho các DNNVV (Boocock và Shariff, 2009).
Sáng kiến này hầu như được triển khai trên toàn cầu, với cả các nước phát triển, đang phát triển và mới nổi. Đặc biệt là từ năm 2020, bảo lãnh tín dụng càng cho thấy vai trò quan trọng của nó trong hỗ trợ DNNVV - đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19. Ở hầu hết các nước châu Âu và châu Á, các Chính phủ đã đưa ra hoặc tăng cường các chương trình bảo lãnh cho các ngân hàng để thúc đẩy cho vay đối với DNNVV. Các biện pháp bao gồm việc mở rộng các loại hình DNNVV được bảo lãnh, nâng mức trần áp dụng bảo lãnh về cả quy mô và tỷ lệ phần trăm của khoản vay và đẩy nhanh các thủ tục bảo lãnh...
Lợi ích của CGS mang lại có thể nhìn thấy ở cả phía tổ chức tín dụng và DNNVV. Theo Riding và Haines (2001), các tổ chức bảo lãnh tín dụng thường trực thuộc Chính phủ hoặc hiệp hội thương mại sẽ san sẻ rủi ro với tổ chức tài chính, giúp tăng cơ hội tiếp cận vốn của bên đi vay. Bên cạnh đó, việc thực thi các chính sách GCS được coi là có hiệu quả trong kích thích tăng trưởng của DNNVV (Zhang và Ye, 2010). Đồng thời, theo Yamori (2015), CGS mang lại lợi ích cho phía doanh nghiệp khi giúp giảm chi phí giao dịch bảo lãnh, tăng khả năng thanh toán bảo hiểm (bao gồm cả giảm chi phí giao dịch, tăng số tiền chiết khấu và cải thiện mức độ thu hồi). Hơn nữa, trên thực tế, hiệu quả của bảo lãnh tín dụng còn được tìm thấy khi giúp cho nền kinh tế nhiều quốc gia khởi sắc hơn đáng kể với sự phát triển mạnh mẽ của DNNVV, điển hình thành công là Hàn Quốc, Nhật Bản...
Mô hình của CGS bao gồm ít nhất ba bên là bên cho vay, bên đi vay và bên bảo lãnh. Theo đó, bên bảo lãnh tín dụng sẽ chi trả một tỷ lệ nhất định cho bên cho vay trong trường hợp xảy ra rủi ro tín dụng. (Hình 1).
Hình 1: Mô hình bảo lãnh tín dụng
Nguồn: Tác giả tổng hợp
Mô hình bảo lãnh tín dụng thành công cần có sự phối hợp hiệu quả của nhiều đơn vị. Theo nghiên cứu của Yoshino và Taghizadeh (2018), ba yếu tố quyết định đến mức độ hiệu quả của các CGS là chính sách của Chính phủ, điều kiện kinh tế vĩ mô và hệ thống ngân hàng.
Thứ nhất, các chính sách của Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Các CGS thường xuất phát từ phía Chính phủ với việc thành lập Quỹ bảo lãnh có sự tham gia của vốn mồi từ ngân sách. Đây chính là các cơ quan giúp hỗ trợ, thúc đẩy nguồn vốn tín dụng từ hệ thống NHTM đến với các DNNVV một cách nhanh chóng. Song song đó, các chính sách khuyến khích phù hợp của Chính phủ cũng giúp định hướng nguồn vốn của NHTM tốt hơn từ việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư, áp dụng lãi suất cũng như cơ cấu nguồn vốn dành cho DNNVV một cách hợp lý.
Thứ hai, về điều kiện kinh tế vĩ mô, các CGS sẽ phải dựa trên đặc điểm, biến động của kinh tế vĩ mô để thay đổi tương ứng. Trong điều kiện ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, nhiều ngành nghề, lĩnh vực chịu những tổn thất nặng nề, cần được bảo lãnh tín dụng ở mức độ cao hơn so với trước đây. Dù nhiều doanh nghiệp bị ảnh hưởng lớn về khả năng tài chính, có thể rơi vào tình trạng thanh khoản kém, thiếu hụt vốn lưu động… nhưng nếu được đầu tư nguồn vốn bổ sung kịp thời và dựa trên những yếu tố nội tại về con người, kinh nghiệm, khách hàng, thị trường… vốn có của DNNVV thì việc vực dậy sản xuất vẫn là khả thi. Do đó, CGS cần nhanh chóng thay đổi về ngành nghề, mức trần áp dụng...
Thứ ba, hệ thống ngân hàng có vai trò phối hợp đắc lực và có tính chất quyết định đối với sự thành công của các CGS. Bởi vì, các chương trình này sẽ chỉ đóng vai trò giảm thiểu rủi ro cho các NHTM, còn quy trình từ việc tìm kiếm khách hàng, thẩm định phương án sử dụng vốn đến quản lý dòng tiền sau giải ngân… đều phải do các NHTM thực hiện để đảm bảo tính chuyên nghiệp và hiệu quả cho mô hình bảo lãnh tín dụng này.
2. Kinh nghiệm triển khai các CGS trên thế giới
2.1. Kinh nghiệm tại một số quốc gia điển hình trước dịch bệnh Covid-19
Mô hình bảo lãnh tín dụng của Chính phủ dành cho DNNVV đã khá thành công ở nhiều quốc gia châu Á từ trước dịch bệnh Covid-19. Các điển hình có thể kể đến là Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia và Malaysia.
Thứ nhất, Hàn Quốc là một trong những quốc gia có các chính sách khuyến khích, tăng khả năng tiếp cận vốn cho DNNVV nói chung và chính sách bảo lãnh tín dụng cho DNNVV đáng kể nhất. Tại quốc gia này, với đặc điểm nền kinh tế có số lượng DNNVV chiếm đến 99% tổng số doanh nghiệp (hơn 3,5 triệu doanh nghiệp), số lao động làm việc trong DNNVV chiếm 88% tổng số lao động, trong khi xuất khẩu chiếm 1/3 tổng sản lượng xuất khẩu của toàn nền kinh tế nên đối tượng DNNVV luôn được đặc biệt chú ý trong việc xây dựng, triển khai các chính sách giúp khuyến khích phát triển nhằm ổn định kinh tế vĩ mô cũng như đời sống xã hội. Tuy nhiên, cũng như tại các quốc gia khác, DNNVV tại Hàn Quốc lại thường khó tiếp cận được nhiều nguồn vốn, nhất là nguồn vốn trung và dài hạn phục vụ sản xuất, kinh doanh. Nguyên nhân nhìn chung là do những hạn chế tiềm ẩn trong bản thân doanh nghiệp như là thiếu tài sản thế chấp, dễ bị tổn thương bởi các yếu tố bên ngoài dẫn đến thường gặp rủi ro không trả được nợ, chi phí giao dịch cao...
Để giải quyết tình trạng này, hệ thống bảo lãnh tín dụng tại Hàn Quốc đã sớm được triển khai. Quỹ bảo lãnh tín dụng Hàn Quốc (KODIT) là tổ chức được thành lập sớm nhất, từ năm 1976. Theo thống kê, nhờ có bảo lãnh tín dụng của KODIT mà số DNNVV được vay vốn tăng lên đáng kể, từ 35,7% năm 1975 đã tăng lên 76,7% vào năm 2015. Trong đó, các KODIT hoạt động trên toàn quốc với mạng lưới rộng khắp (01 trụ sở chính, 09 vùng và 106 chi nhánh) chiếm 57% thị phần (2015), hướng đến bảo lãnh chủ yếu cho các DNNVV có định hướng xuất khẩu. KODIT tập trung bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp có tổng tài sản ít hơn 445 triệu USD và doanh thu tùy thuộc vào ngành nghề được xếp vào DNNVV.
Tính đến năm 2016, KODIT đã bảo lãnh cho hơn 205 nghìn doanh nghiệp, số tiền bảo lãnh lên đến 42 tỷ USD. Mức trần bảo lãnh của KODIT là 2,6 triệu USD, một số trường hợp đặc biệt có thể được nâng mức trần lên đến 6 triệu USD. Tỷ lệ doanh nghiệp do KODIT bảo lãnh là 70 - 85% so với số hồ sơ nộp đơn xin bảo lãnh; trong đó, riêng nhóm doanh nghiệp khởi nghiệp thì tỷ lệ được bảo lãnh lên đến 100%. Mức phí bảo lãnh dao động từ 0,5 - 3%/năm, tùy thuộc vào mức độ rủi ro của DNNVV.
Ngoài ra, tại Hàn Quốc còn có các tổ chức khác cũng thực hiện bảo lãnh tín dụng cho DNNVV như Bảo lãnh tín dụng công nghệ Hàn Quốc (KOTEC) và Liên đoàn bảo lãnh tín dụng Hàn Quốc (KOREG)…
Thứ hai, Nhật Bản đã thiết kế CGS của Chính phủ cho DNNVV từ rất sớm. CGS đầu tiên được vận hành ở Nhật Bản từ những năm 1930, tại Tokyo. CGS được cung cấp bởi các cơ quan của Chính phủ (Bộ Tài chính, Bộ Kinh tế Thương mại và Công nghiệp) và chính quyền địa phương.
Các địa phương thành lập các hiệp hội bảo lãnh tín dụng bảo lãnh cho các khoản nợ của DNNVV với các tổ chức tài chính phi Chính phủ; sau đó, Chính phủ thành lập Quỹ bảo hiểm tín dụng. Một mặt, Quỹ bảo hiểm tín dụng đảm bảo cho các khoản cho vay được cấp bởi các hiệp hội bảo hiểm tín dụng (trong trường hợp các DNNVV không có khả năng hoàn trả khoản vay, các hiệp hội này vẫn có thể được hoàn trả từ 70 - 80% tiền bảo hiểm); mặt khác, Quỹ bảo hiểm tín dụng cấp những khoản vốn vay ngắn và dài hạn cho các hiệp hội bảo lãnh tín dụng. Trong vai trò là người cho vay cuối cùng, Quỹ bảo hiểm tín dụng đảm bảo sự vận hành ổn định của các hiệp hội bảo lãnh tín dụng.
Quy trình thực hiện của CGS là DNNVV và ngân hàng làm đơn xin bảo lãnh tín dụng lên CGS, nếu được CGS phê duyệt thì ngân hàng sẽ cấp tín dụng cho doanh nghiệp và doanh nghiệp là người trả phí cho CGS. Sau khi được bảo lãnh tín dụng, doanh nghiệp sẽ phải trả phí từ 0,45% đến 1,9% tùy thuộc mức độ rủi ro tín dụng. Trong trường hợp doanh nghiệp được bảo lãnh vay bị vỡ nợ thì CGS sẽ trả cho ngân hàng (gọi là bán nợ).
Trong đó, đáng chú ý nhất là CGS tại Nhật Bản triển khai Chương trình bảo lãnh khẩn cấp để hỗ trợ hữu hiệu và kịp thời cho tiếp cận nguồn vốn của DNNVV. Chính sách này đặc biệt thành công trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2011 khi tình hình kinh tế - xã hội Nhật Bản bị ảnh hưởng mạnh bởi suy thoái kinh tế toàn cầu. Mức trần bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ là 200 triệu Yên với chương trình bảo lãnh chung; trong đó, 80 triệu Yên với chương trình bảo lãnh không thế chấp. Năm 2009, các doanh nghiệp nhỏ tại Nhật Bản được cho vay trung bình 85,6 triệu Yên. Tổng giá trị bảo lãnh được chấp nhận các năm 2008, 2009, 2010 lần lượt là 19.581 triệu Yên; 16.625 triệu Yên và 14.172 triệu Yên (Saito Kuniyoshi, 2014). Đến năm 2014, Nhật Bản có gần 3,85 triệu DNNVV đang hoạt động thì 36,6% trong số đó nhận được bảo đảm từ 51 CGS khác nhau.
Thứ ba, tại Indonesia, các mô hình bảo lãnh tín dụng cho DNNVV đã được triển khai từ năm 2007 theo hai cấp độ, cấp quốc gia và cấp vùng. Ở cấp quốc gia, Indonesia có một số đơn vị bảo lãnh tín dụng cùng hoạt động song song với nhau, bao gồm: Viện bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp (PKPI), Bảo hiểm tín dụng Indonesia (Pt. Askrindo), Hiệp hội bảo lãnh tín dụng Indonesia (Perum Jamkrindo) và Hiệp hội bảo lãnh tín dụng vùng (Perum Jamkrida). Ở cấp vùng, các đơn vị bảo lãnh tín dụng thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp tại địa phương và báo cáo lên Trung ương về kết quả hoạt động định kỳ. Đáng lưu ý là các đơn vị này có sự phối hợp hiệu quả, kịp thời để giúp giải quyết được nhu cầu của khách hàng một cách tốt nhất, cũng như giúp san sẻ rủi ro giữa các chương trình.
Về phương thức triển khai hoạt động bảo lãnh tín dụng, các tổ chức đơn vị bảo lãnh tín dụng sử dụng kết hợp cả hai phương pháp cấp bảo lãnh.
Ở phương pháp thứ nhất, bảo lãnh theo thỏa thuận giữa ngân hàng và tổ chức bảo lãnh tín dụng - Conditional Automatic Cover (CAC), tức là bảo lãnh căn cứ trên thỏa thuận giữa ngân hàng và tổ chức bảo lãnh tín dụng. Theo đó, các doanh nghiệp sẽ không phải trực tiếp đề xuất bảo lãnh tín dụng đến các đơn vị cấp bảo lãnh tín dụng, mà căn cứ trên những điều kiện đã được thiết lập sẵn trong thỏa thuận giữa ngân hàng và tổ chức bảo lãnh tín dụng, các doanh nghiệp sẽ tự động được bảo lãnh tín dụng từ các tổ chức bảo lãnh tín dụng khi đáp ứng được các tiêu chí đã đề ra. Các chương trình bảo lãnh tự động này thường là của các tổ chức cấp bảo lãnh tín dụng lớn, cấp quốc gia. Ví dụ: Perum Jamkrindo và Pt. Askrindo chấp nhận đề xuất của ngân hàng với tỷ lệ hoàn trả từ 50% đến 80% tổng khoản vay nếu các doanh nghiệp đáp ứng tiêu chí CGS.
Ở phương pháp thứ hai, bảo lãnh theo đề xuất của ngân hàng và doanh nghiệp đi vay - Case by Case (CBC) thì bảo lãnh sẽ được thực hiện đối với từng trường hợp riêng biệt. Theo đó, các doanh nghiệp sẽ phải thực hiện trực tiếp các đề xuất bảo lãnh tín dụng và ngân hàng sẽ cùng đề xuất bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp với các tổ chức bảo lãnh. Tương tự như CAC, số tiền bảo lãnh và tỷ lệ bảo lãnh sẽ phụ thuộc mức độ rủi ro của từng dự án, cũng như doanh nghiệp đi vay.
Thứ tư, tại Malaysia, CGS cho DNNVV cũng được thực hiện hiệu quả với chiến lược tập trung vào cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho DNNVV. Đặc điểm riêng biệt nhất của các CGS cho DNNVV tại quốc gia này là có sự chuyên biệt lớn theo ngành nghề. Theo đó, hoạt động bảo lãnh tín dụng được thiết kế đa dạng, phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp theo từng ngành nghề, lĩnh vực hoạt động. Hai tổng công ty bảo lãnh tín dụng cung cấp bảo đảm cho DNNVV là Flexi Guarantee Scheme (FGS) và SJPP (Syarikat Jaminan Pembiayaan Perniagaan) sẽ quyết định số tiền vay, thời gian vay cho DNNVV thuộc các lĩnh vực khác nhau. Ví dụ: Đối với cấp bảo lãnh cho tất cả các doanh nghiệp trong lĩnh vực số và tự động, số tiền vay giới hạn đến 3 triệu RM với thời hạn kéo dài 10 năm, trong khi con số này lần lượt là 5 triệu RM và 8 năm đối với doanh nghiệp thực phẩm.
2.2. Kinh nghiệm triển khai bảo lãnh tín dụng cho DNNVV chịu ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19
Dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế toàn cầu; trong đó, đối tượng DNNVV được xem là chịu tác động lớn nhất. Vì vậy, hàng loạt sáng kiến mới với CGS đã được đưa ra để tăng cường hỗ trợ hoạt động của DNNVV ngay từ năm 2020. Cụ thể:
Một là, các chương trình bảo lãnh mới được triển khai rộng khắp để giúp DNNVV ứng phó với khủng hoảng do dịch bệnh Covid-19 gây ra. Ví dụ: Ngay trong năm 2020, Đan Mạch đã giới thiệu hai chương trình bảo lãnh khoản vay mới, một chương trình dành riêng cho DNNVV. Theo đó, Chính phủ sẽ bảo lãnh 70% giá trị của bất kỳ khoản vay ngân hàng mới nào dành cho các DNNVV đã bị sụt giảm lợi nhuận hoạt động trên 50%. Tại Israel, một quỹ cho vay đặc biệt đã được áp dụng cho các công ty đang gặp khó khăn, chủ yếu là DNNVV, nhận hỗ trợ từ Quỹ bảo lãnh của Nhà nước cho DNNVV. Hà Lan đã triển khai bảo lãnh cho các DNNVV bị ảnh hưởng bởi sự bùng phát của dịch bệnh Covid-19, cung cấp thêm 300 triệu EUR tín dụng cho các DNNVV...
Hai là, nguồn vốn sử dụng cho các chương trình bảo lãnh cũng được gia tăng đáng kể ở hầu hết các quốc gia. Ví dụ: Ở Đức, tổng quy mô CGS dành cho DNNVV đã tăng lên đến 2,5 tỷ EUR; đồng thời, Chính phủ cũng đảm bảo cung cấp thêm nguồn cho vay cho DNNVV. Và Ý cũng đã cho phép tăng quy mô của Quỹ bảo lãnh tín dụng quốc gia cho DNNVV thêm 1,5 tỷ EUR. Hay như Bồ Đào Nha đã gia tăng ngân sách bảo lãnh tín dụng do Nhà nước hậu thuẫn thêm 3 tỷ EUR và mức trần giá trị khoản bảo lãnh với từng doanh nghiệp cũng được nâng lên. Tại Áo, Quỹ bảo lãnh tín dụng của Áo - Austrian Wirtschaft Service (AWS) sẵn sàng cung cấp bảo lãnh mới cho DNNVV trị giá 10 triệu EUR, lên đến 80% số tiền vay hoặc 2,5 triệu EUR trong 05 năm. Tại Bồ Đào Nha, hạn mức tín dụng cho DNNVV cũng được tăng lên đáng kể với mức 200 triệu EUR để hỗ trợ nhu cầu ngân quỹ của các doanh nghiệp, với hạn mức tín dụng 60 triệu EUR dành cho các doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực du lịch...
Ba là, các quốc gia đã tăng mức độ bảo đảm mà các Chính phủ sẵn sàng cung cấp cho các khoản tín dụng. Ở một số quốc gia (Đức, Pháp, Thụy Sĩ), mức bảo lãnh công đã được nâng lên 100% đối với một số danh mục khoản vay nhất định. Israel tăng bảo lãnh lên 85% số tiền vay và giảm tài sản thế chấp xuống 10%, với thời gian trả nợ dài hơn, lên đến 05 năm. Tại Singapore, phần chia sẻ rủi ro của Chính phủ trong khuôn khổ Khoản vay vốn lưu động của Chương trình tài trợ doanh nghiệp đã được tăng lên 80% và số tiền cho vay tối đa được tăng gấp đôi so với trước đó, lên 600 nghìn SGD mỗi năm.
Bốn là, đơn giản hóa thủ tục hành chính để DNNVV dễ dàng tiếp cận các khoản bảo lãnh cho vay. Quỹ bảo lãnh của Áo (AWS) đã miễn phí xử lý và không yêu cầu DNNVV phải lập kế hoạch kinh doanh hoặc có tài sản thế chấp khoản vay. Còn tại Ý và Ba Lan, doanh nghiệp sẽ được miễn phí bảo lãnh. Đồng thời, các doanh nghiệp sẽ được thực hiện các thủ tục theo dõi nhanh để cho phép đưa ra các bảo lãnh ngay lập tức. Tại Israel, việc phê duyệt khoản vay tại ngân hàng đã được rút ngắn xuống còn 09 ngày làm việc.
Như vậy, bảo lãnh tín dụng cho DNNVV đã được thực hiện rộng khắp trên toàn cầu từ rất sớm với nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển của DNNVV. Đặc biệt là sau khi dịch bệnh Covid-19 bùng phát, nhiều chính sách bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV được triển khai mạnh mẽ hơn nữa nhằm giúp các đối tượng này khắc phục khó khăn trong sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, đây cũng có thể là hướng đi tốt cho Việt Nam trong việc cải thiện khả năng tiếp cận nguồn vốn của DNNVV trong giai đoạn hồi phục sau dịch bệnh như hiện nay.
3. Thực trạng CGS tại Việt Nam
Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV tại Việt Nam (QBLTD) được triển khai theo Nghị định số 34/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ (Nghị định số 34/2018/NĐ-CP) là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo toàn và phát triển vốn; thực hiện chức năng cấp bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV theo quy định pháp luật. QBLTD hoạt động theo mô hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Nguồn vốn hoạt động của QBLTD được hình thành từ các nguồn sau: Thứ nhất, vốn chủ sở hữu, bao gồm: Vốn điều lệ của QBLTD do ngân sách địa phương cấp (tối thiểu 100 tỷ đồng); vốn bổ sung từ kết quả hoạt động của QBLTD theo quy định; vốn hình thành từ các khoản tài trợ, viện trợ, đóng góp không phải hoàn trả của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước dành cho QBLTD; vốn nhà nước khác theo quy định của pháp luật; các nguồn vốn khác thuộc vốn chủ sở hữu theo quy định của pháp luật. Thứ hai, vốn huy động: Vốn huy động từ các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật và quy định nội bộ của QBLTD bảo đảm phù hợp với khả năng hoàn trả của QBLTD. Thứ ba, các khoản vốn khác gồm: Vốn nhận ủy thác của chính quyền địa phương, các quỹ tài chính địa phương, các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước (bên ủy thác) để thực hiện yêu cầu của bên nhận ủy thác theo quy định của pháp luật và Nghị định này; các nguồn vốn hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
QBLTD có vai trò tạo cầu nối trong việc tiếp cận vốn giữa DNNVV với ngân hàng. Theo OECD (2021), QBLTD là một trong những sáng kiến rất hữu ích của Việt Nam. Theo Phạm Xuân Hòe (2021), hệ thống QBLTD có 28 quỹ với số vốn điều lệ gần 1.500 tỷ đồng. Tuy nhiên, hoạt động của QBLTD còn nhiều hạn chế:
(i) Các QBLTD nhỏ lẻ, chưa có tính lan tỏa. Quy mô và năng lực khiêm tốn của QBLTD chưa thật sự đáp ứng được nhu cầu của DNNVV trong việc bảo lãnh vay vốn phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh; chưa thể hiện được vai trò kết nối vốn với NHTM. Quy mô của hệ thống quỹ chỉ bằng khoảng ½ quy mô vốn điều lệ tối thiểu của 01 NHTM. Đơn cử như tại Bạc Liêu, trong 05 năm hoạt động tính đến năm 2019, QBLTD triển khai bảo lãnh được duy nhất 01 doanh nghiệp.
(ii) Quy chế bảo lãnh tín dụng đối với các DNNVV quá chặt chẽ. Tại Điều 16 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP quy định việc bảo lãnh của quỹ phải có tài sản thế chấp - trong khi các DNNVV khó tiếp cận vay vốn NHTM cũng bởi họ thiếu tài sản thế chấp. Như vậy, nút thắt về tài sản thế chấp chưa được tháo gỡ; cùng với đó, quy định này khiến cho các QBLTD khó khăn trong triển khai bảo lãnh. Hầu hết các doanh nghiệp tham gia khảo sát của OECD (2021) đều phản hồi về khó khăn trong tiếp cận thông tin và chương trình hay các yêu cầu của QBLTD quá chặt chẽ; một số doanh nghiệp phản hồi gần như không tiếp cận được thông tin về QBLTD.
(iii) Do vốn điều lệ của các QBLTD 100% từ ngân sách nhà nước nên việc quy trách nhiệm khi xảy ra thua lỗ, thất thoát vốn do bảo lãnh, cho vay DNNVV cũng khá chặt chẽ, trong khi tỷ lệ rủi ro không nhỏ. Cũng tại Điều 16 Nghị định số 34/2018/NĐ-CP quy định trong trường hợp bảo lãnh tín chấp, Chủ tịch QBLTD hay hội đồng tín dụng cấp bảo lãnh sẽ chịu trách nhiệm thực hiện và bảo toàn vốn, cũng như các nguyên tắc về quản lý tài chính. Quy định này có thể dẫn đến tâm lý e ngại khi triển khai bảo lãnh tín dụng của các QBLTD.
(iv) Hiệu quả hoạt động của các QBLTD không cao, thậm chí để xảy ra thất thoát. Một số QBLTD đã phải giải thể hoặc thậm chí xảy ra sai phạm trong quá trình hoạt động. Ví dụ: QBLTD của thành phố Đà Nẵng chỉ cấp bảo lãnh cho 14 doanh nghiệp theo phương thức tín chấp với giá trị 18,1 tỷ đồng trong suốt giai đoạn 2014 - 2019, tương đương bình quân là 3,6 tỷ đồng/năm và đã giải thể vào tháng 02/2020 do không hiệu quả.
(v) Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp chưa linh hoạt, mới chỉ tập trung vào các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và phát triển quyền sở hữu trí tuệ. Ví dụ: Luật Hỗ trợ DNNVV tập trung ưu đãi cho các DNNVV tham gia vào chuỗi giá trị, trong khi số lượng doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu này hiện không nhiều. Hay Đề án "Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025" của Bộ Khoa học và Công nghệ chưa nhất quán về tiêu chuẩn chất lượng, hay định nghĩa về doanh nghiệp khoa học và công nghệ quá chặt chẽ dẫn đến máy móc trong việc xác định các doanh nghiệp đủ điều kiện được hỗ trợ.
Bên cạnh đó, các chính sách hiện nay mới giải quyết được phần quy mô vốn cung ứng nhưng chưa khi đi sâu vào hỗ trợ tăng cường năng lực thể chế của DNNVV, khuyến khích DNNVV tham gia được vào các chuỗi giá trị toàn cầu...
4. Giải pháp tăng hiệu quả bảo lãnh tín dụng cho DNNVV tại Việt Nam
CGS của Chính phủ cho DNNVV đã chứng minh được vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy khả năng tiếp cận vốn của DNNVV tại nhiều quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế đang dần hồi phục sau đại dịch Covid-19 như hiện nay. Dựa vào những kinh nghiệm trong việc áp dụng các chính sách bảo lãnh tín dụng của Chính phủ cho DNNVV trên thế giới và thực trạng hệ thống QBLTD Việt Nam hiện nay, một số vấn đề có thể cần cân nhắc đến để tăng hiệu quả bảo lãnh tín dụng cho DNNVV tại Việt Nam:
Thứ nhất, hoạt động của các QBLTD dành cho DNNVV thường mang tính rủi ro, nhưng là cần thiết để hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn tín dụng ngân hàng dễ dàng hơn. Vì vậy, các chính sách về QBLTD cần được đẩy mạnh và tạo điều kiện thuận lợi để DNNVV có thể tiếp cận thông qua việc đơn giản hóa thủ tục, mở rộng mức độ tiếp cận với DNNVV đến từ nhiều lĩnh vực, ngành nghề.
Thứ hai, hoạt động của QBLTD cần phải có quy chuẩn, khung pháp lý riêng không quá chặt chẽ với DNNVV như hiện nay nhưng cũng phải đảm bảo hoạt động hiệu quả, an toàn vốn, cũng như tài sản của QBLTD. Hơn nữa, đặc biệt tránh các bảo lãnh hủy ngang để các định chế tài chính cung ứng vốn cho DNNVV hoạt động hiệu quả, thông suốt.
Thứ ba, cần xây dựng cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các bên, bao gồm: QBLTD, NHTM, Hiệp hội, chính quyền địa phương…để tránh trường hợp các NHTM không thanh toán được tiền bảo lãnh từ các QBLTD như đã xảy ra trước đây. Tăng cường vai trò Hiệp hội DNNVV, thúc đẩy gắn kết với các hiệp hội DNNVV địa phương (nhất là trong cung cấp thông tin, tư vấn, đào tạo và kết nối...) cùng với các NHTM trong việc thẩm định, hỗ trợ tài chính cho DNNVV.
Thứ tư, tinh chỉnh lại các bước trong quy trình hoạt động của QBLTD, bao gồm: (i) Xem xét lại các yêu cầu đối với bảo lãnh cho DNNVV để đảm bảo các đối tượng này có thể tiếp cận được; (ii) Cần thiết phải có sự thống nhất hoặc ủy quyền cao nhất cho các NHTM để đảm bảo rút gọn việc thẩm định phương án vay của DNNVV, hạn chế việc thẩm định hai lần từ QBLTD và NHTM, gây ra tình trạng lệch nhau về mặt khẩu vị rủi ro giữa các QBLTD và NHTM (tương tự như cách làm của Indonesia). (iii) Đảm bảo thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh khi xảy ra rủi ro.
Thứ năm, xem xét tăng mức bảo lãnh tín dụng, đồng thời giảm bớt quy định về điều kiện để được cấp bảo lãnh tín dụng, thay đổi tỷ lệ bảo lãnh tín dụng, đơn giản hóa thủ tục cho DNNVV… nhằm giúp các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn vay thực hiện các dự án đầu tư để phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Thứ sáu, QBLTD tại các địa phương cần có sự phối hợp tốt với chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội - ngành nghề… để hỗ trợ phát triển năng lực, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao công tác kế toán, năng lực quản trị điều hành, quản trị rủi ro cho bản thân các QBLTD và DNNVV.
Tài liệu tham khảo:
1. EIF Working Paper No. 2015/31, SME Securitisation – at a crossroads?, https://www.econstor.eu/handle/10419/176661
2. Boocock và Shariff (2009), The impact of public guarantees on credit to SMEs, https://link.springer.com/article/10.1007/s11187-007-9077-7
3. Naoyuki Y. và Farhad T.H. (2016), Optimal Credit Guarantee Ratio for Asia, https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=2838074
4. Riding, A.L., và G. Haines, Jr. (2001), Loan Guarantees: Costs of Default and Benefits to Small Firms, Journal of Business Venturing 16 (6): 595-612.
5. Phạm Xuân Hòe (2021), Sắp xếp lại quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, nguồn https://diendandoanhnghiep.vn/sap-xep-lai-quy-bao-lanh-tin-dung-doanh-nghiep-nho-va-vua-207913.html
6. OECD (2021), SME and Entrepreneurship Policy in Viet Nam, https://doi.org/10.1787/30c79519-en
7. Yamori (2015), Japanese SMEs and the credit guarantee system after the global financial crisis, https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/23322039.2014.1002600
8. Yoshino, N., and F. Taghizadeh-Hesary. (2016), Optimal Credit Guarantee Ratio for Asia, In SMEs in Developing Asia New Approaches to Overcoming Market Failures, edited by P. Vandenberg, P. Chantapacdepong, and N. Yoshino. Tokyo: Asian Development Bank Institute.
9. Yoshino, N. and F. Taghizadeh-Hesary. (2018), The Role of SMEs in Asia and Their Difficulties in Accessing Finance. ADBI Working Paper 911. Tokyo: Asian Development Bank Institute.
10. Zander, R., C. Miller, and N. Mhlanga. (2013), Credit Guarantee Systems for Agriculture and Rural Enterprise Development, Rome: Food and Agriculture Organization of the United Nations.
11. Zhang và Ye (2010), Study on the effective operation models of credit guarantee system for small and medium enterprises in China, https://citeseerx.ist.psu.edu/viewdoc/download?doi=10.1.1.624.3100&rep=rep1&type=pdf
TS. Lại Thị Thanh Loan
Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV