Fintech và những thách thức trong việc ban hành các quy định pháp lý
15/08/2022 3.187 lượt xem
Trong hơn hai thập kỷ vừa qua, chúng ta chứng kiến hai sự kiện đã tác động đến hệ thống tài chính toàn cầu, đó là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và sự trỗi dậy của hệ sinh thái tài chính kỹ thuật số, được gọi chung là công nghệ tài chính hoặc Fintech1. Cả hai sự kiện đều đặt ra yêu cầu về những phản ứng pháp lý phù hợp. Các bài học kinh nghiệm sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã được thảo luận rộng rãi và kết quả phản ứng pháp lý là Basel III, đã đạt được sự đồng thuận - mặc dù chưa được thực hiện đầy đủ2 trong khuôn khổ pháp lý toàn cầu. Tuy nhiên, làm thế nào để điều chỉnh Fintech vẫn đang trong giai đoạn đầu là một chủ đề tranh luận sôi nổi về chính sách và học thuật. Trong khi sự ra đời của Fintech đặt ra những thách thức và cơ hội mới, các mục tiêu cốt lõi của quy định cũng có thể cung cấp hướng dẫn thích hợp, cả về việc có hay không và cách quy định pháp lý đối với tài chính kỹ thuật số. Mục tiêu cốt lõi của việc này là bảo vệ nhà đầu tư và người tiêu dùng, ổn định tài chính và hình thành tính toàn vẹn của thị trường. Bài viết này chia sẻ một số ý kiến, đánh giá của các nhà nghiên cứu về những khó khăn, thách thức và kiến nghị trong việc xây dựng, ban hành hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động của Fintech.
 
Thực tiễn trong thời gian qua, để đạt được các mục tiêu cốt lõi nói trên, nhiều cơ quan quản lý sử dụng một loạt các nguyên tắc và các quy tắc tập trung vào kết quả “dựa trên nguyên tắc” hơn là các quy định chi tiết “dựa trên quy tắc”. Mặc dù các nguyên tắc, cách thực hiện và hệ thống phân cấp của chúng khác nhau, nhưng ít nhất ba nguyên tắc chung sau đây đã xuất hiện ở các khu vực pháp lý khác nhau và được các cơ quan quản lý chấp nhận rộng rãi: Tính chắc chắn về mặt pháp lý; tính trung lập về công nghệ và tính tương xứng (hoặc thường được gọi là dựa trên rủi ro). Tất cả các nguyên tắc trên đều hướng tới một sân chơi bình đẳng cho các bên tham gia thị trường, đảm bảo rằng, mọi đối tượng đều ở trên cùng một mặt bằng pháp lý; đối xử công nghệ như nhau và tìm sự cân bằng giữa mức độ rủi ro và các yêu cầu pháp lý. 
 
Sự chắc chắn về mặt pháp lý là nguyên tắc chính của bất kỳ quy định nào. Điều này bao gồm một định nghĩa chặt chẽ về các điều kiện pháp lý cũng như việc áp dụng quy định một cách minh bạch. Tuy nhiên, đối với Fintech, có ít nhất ba thách thức nảy sinh đối với sự chắc chắn về mặt pháp lý. Thứ nhất, tốc độ phát triển cao của Fintech xét theo các mô hình kinh doanh khác nhau và từ không trọng yếu đến trở thành trung tâm trong các cuộc thảo luận về hệ thống tài chính chỉ trong vòng một thập kỷ, trái ngược với các quy trình thông thường tốn nhiều thời gian cho việc ban hành các quy tắc quy định mới, thường được gắn với hệ thống tham vấn cộng đồng của các bên liên quan quan trọng nhất. Thách thức thứ hai liên quan đến số lượng các tổ chức chính phủ có liên quan. Quy định tài chính ở nhiều khu vực pháp lý liên quan đến nhiều tổ chức khác nhau (bao gồm ngân hàng trung ương, các cơ quan giám sát tài chính, các cơ quan chính phủ khác như cơ quan quản lý thuế, lập pháp và chống rửa tiền). Thách thức thứ ba là, so với các cơ quan quản lý và sự tham gia thị trường, Fintech ngày càng yêu cầu kiến ​​thức khoa học máy tính và mã hóa bên cạnh kiến ​​thức thị trường tài chính và pháp luật thông thường. 
 
Tính trung lập về công nghệ đòi hỏi các cơ quan quản lý phải xem xét kỹ lưỡng về công nghệ và tập trung chủ yếu vào chức năng mà dịch vụ tài chính cung cấp. Một số lý do thúc đẩy tính trung lập về công nghệ là một nguyên tắc pháp lý trọng yếu. Thứ nhất, sự thay đổi công nghệ diễn ra rất nhanh và tiến tới ngày càng nhanh hơn. Việc liên tục xem xét và cập nhật các quy định cho phù hợp có thể không khả thi và cũng không hiệu quả. Tính đến giữa năm 2019, có hơn 2.500 loại tiền mã hóa khác nhau có sẵn3 và thuật ngữ công nghệ sổ cái phân tán (DLT) chỉ là một trình hệ thống giữ chỗ cho một loạt các chức năng và thông số khác nhau4. Một lý do khác khiến các cơ quan quản lý không muốn chọn công nghệ này hơn công nghệ kia là vì việc đứng hẳn về bên nào có thể dẫn đến trách nhiệm tiềm tàng. 
 
Về yêu cầu tương xứng, khuôn khổ Basel đặt ra các yêu cầu quy định tối thiểu đối với các ngân hàng hoạt động quốc tế trong khuôn khổ truyền thống. Trong các giới hạn này, nó cho phép cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia cân đối trong việc đặt ra các yêu cầu pháp lý thấp hơn đối với các dịch vụ tài chính có rủi ro ít hơn theo các yếu tố như quy mô ngân hàng, khả năng tác động đến hệ thống, độ phức tạp và rủi ro dự kiến. Khái niệm tương xứng nhằm mục đích hạn chế sự can thiệp công khai dưới hình thức các nghĩa vụ pháp lý và đặc biệt là để tránh chi phí tuân thủ quá mức hoặc gánh nặng quy định đối với các ngân hàng nhỏ hơn và không phức tạp (BCBS, 2019; Lautenschläger, 2017). Một số mô hình kinh doanh mới của Fintech chỉ tham gia vào một khía cạnh cụ thể của ngân hàng, ví dụ như thanh toán, bảo hiểm hoặc quản lý tài sản. Điều này đặt ra câu hỏi về mức độ mà Fintech cần được yêu cầu để đáp ứng được tính đầy đủ của giấy phép hoạt động ngân hàng, bảo hiểm hoặc cơ sở hạ tầng, hay liệu chỉ quy định cho chức năng cụ thể của mô hình kinh doanh. Hai tiêu chí chính liên quan đến rủi ro Fintech đặt ra là liệu nó có tham gia vào quá trình chuyển đổi kỳ hạn hay không và liệu các khoản tiền gửi trên bảng cân đối kế toán có được công ty Fintech truy cập trực tiếp hay không. Về khía cạnh này, giới hạn giữa việc chỉ cung cấp một giải pháp phần mềm thuần túy và các dịch vụ tài chính thực tế đã được một số quốc gia cho phép tài chính kỹ thuật số thử nghiệm. 
 
Trong khuôn khổ pháp lý truyền thống, một số khía cạnh, chẳng hạn như các quy định về hành vi và yêu cầu chống rửa tiền được áp dụng cho toàn bộ hoạt động tài chính. Fintech phù hợp với bối cảnh này ở đâu? Câu trả lời là không đơn giản vì Fintech bao gồm một loạt các hoạt động. Một quy định mà phương pháp tiếp cận pháp lý như nhau trong tất cả trường hợp (one - size - fits - all) mang đến rủi ro bóp nghẹt sự đổi mới và ngăn cản sự gia nhập thị trường mới. Cho đến nay, các cơ quan quản lý có những phản ứng pháp lý rất khác nhau giữa các loại hoạt động Fintech và khu vực pháp lý, nhìn chung có ba hình thức về vấn đề này: Chờ đợi và quan sát (wait and see); thử nghiệm quy tắc “cùng rủi ro, cùng quy định” (duck type) hoặc ban hành quy định (code) (Amstad, 2019).
 
Lựa chọn đầu tiên là để Fintech phần lớn không cần theo quy định. Trong những ngày đầu của Fintech, các cơ quan quản lý ở hầu hết các khu vực pháp lý đã lựa chọn “chờ đợi và quan sát”. Bitcoin, như một chất xúc tác của hệ sinh thái Fintech, bắt đầu vào năm 2008 với bài báo của Satoshi Nakamoto. Nhưng đến năm 2013 thì chính bản thân một số công ty Fintech cảm thấy bị cản trở trong hoạt động của họ vì họ không thể hưởng lợi từ sự chắc chắn về mặt pháp lý của quy định. Tổng vốn hóa thị trường của tài sản mã hóa đã tăng vọt từ 30 tỷ USD lên hơn 800 tỷ USD vào đầu tháng 01/2018, trước khi giảm xuống còn khoảng 200 tỷ USD (Trung tâm Tài chính thay thế Cambridge, 2019). Với khối lượng giao dịch trong thời đại Fintech ngày càng tăng, mức độ gian lận, thực tiễn thị trường không phù hợp. Nhu cầu bảo vệ nhà đầu tư và người tiêu dùng cũng như tính toàn vẹn của thị trường khiến cho một số khu vực pháp lý đã đưa ra cảnh báo cho thị trường. Chờ đợi và quan sát là lựa chọn chủ đạo trong bối cảnh khối lượng thị trường Fintech vẫn ở mức thấp. Tuy nhiên, một loạt lợi ích và rủi ro đã được xác định trong các trường hợp Fintech có thể phát triển hơn nữa. Nếu quy định có vẻ phù hợp, câu hỏi cơ bản đặt ra là liệu rủi ro và kết quả đạt được của Fintech có thể được tích hợp vào khuôn khổ hiện có hay không, hay liệu có cần phải có một mô hình mới với những quy định mới hay không.
 
Lựa chọn thứ hai là thử nghiệm quy tắc “cùng rủi ro, cùng quy định”5 của Fintech vào quy định hiện hành. Một số mô hình Fintech về cơ bản là đại diện kỹ thuật số hoặc mã hóa của một công cụ, một tổ chức hoặc một nền tảng cơ sở hạ tầng tài chính. Một cách tiếp cận đơn giản để điều chỉnh các mô hình này là tập trung vào chức năng kinh tế của chúng hoặc cụ thể hơn là rủi ro tiềm ẩn của chúng. Các rủi ro cho dù có liên quan đến kỹ thuật số hay không đều cần cùng câu trả lời về pháp lý, có thể là yêu cầu báo cáo, cấp giấy phép, hoặc một lệnh cấm. Quy định kiểu “cùng rủi ro, cùng quy định” áp dụng hai nguyên tắc quản lý được sử dụng rộng rãi, đã được đề cập trước đây: Quy định dựa trên nguyên tắc, vì nó điều chỉnh rủi ro giống nhau với cùng một quy tắc và quy định mang tính trung lập về công nghệ vì nó tập trung vào chức năng kinh tế. Tuy nhiên, các đổi mới Fintech cũng có thể dẫn đến chức năng mới. Các cơ quan quản lý cần xác định các chức năng mới này và nếu cần, đưa chúng vào các quy định mới để giải quyết cụ thể những chức năng này.
 
Lựa chọn thứ ba là đưa Fintech vào các quy định của pháp luật cụ thể cho phù hợp với chức năng mới có được thông qua đổi mới công nghệ. Bất chấp sự thay đổi công nghệ, các rủi ro cốt lõi cơ bản trong thị trường tài chính, chẳng hạn như rủi ro thị trường, tín dụng, thanh khoản và hoạt động, hầu hết vẫn giữ nguyên. Tuy nhiên, với sự đổi mới tài chính đang diễn ra, các tổ hợp rủi ro mới có thể xuất hiện. Ngoài ra, những rủi ro cốt lõi có thể hiển thị dưới dạng chỉ có thể xảy ra khi sử dụng công nghệ mới. Nghiên cứu hiện tại cho thấy, trong số các yếu tố khác, Fintech có thể dẫn đến chức năng mới dựa trên: (a) Các tính năng cụ thể của công nghệ Blockchain; (b) Sự kết hợp mới của các mô hình kinh doanh; và (c) Những thách thức mới đối với hoạt động kỹ thuật số. Một nhu cầu bổ sung về quy định riêng có thể phát sinh từ thực tế là các bản ghi Blockchain kỹ thuật số phải được thực thi trong thế giới vật lý. “Mặc dù các Blockchain có thể theo dõi việc chuyển giao quyền sở hữu, nhưng vẫn cần thực thi quyền sở hữu thích hợp, ngoại trừ trường hợp tiền mã hóa (pháp định)” (Abadi và Brunnermeier 2019). Việc thực thi các quyền và nghĩa vụ trong Fintech có thể khác với các quyền và nghĩa vụ thường thấy trong các tài sản truyền thống.
 
Các nhà quản lý và giám sát phải đối mặt với hành động cân bằng đầy thách thức để duy trì sự đổi mới một cách thân thiện và đồng thời thể hiện sự không khoan nhượng đối với hành vi phạm tội. Cũng như các hình thức phi kỹ thuật số trước đây, các quy định pháp lý đối với Fintech cần được thúc đẩy bởi một bộ mục tiêu và nguyên tắc hướng dẫn rõ ràng để thực hiện chúng. Các mục tiêu cốt lõi truyền thống của quy định tài chính phi kỹ thuật số như bảo vệ nhà đầu tư và người tiêu dùng, tính toàn vẹn của thị trường và bảo vệ sự ổn định tài chính, duy trì sự phù hợp của chúng đối với Fintech. Trong những ngày đầu và với số lượng Fintech còn ít, phương pháp “theo dõi và quan sát” chiếm ưu thế. Kể cả với những trường hợp quy định có vẻ phù hợp, thì hoạt động “theo dõi và giám sát” cũng được thực hiện theo cách tương tự để hạn chế các động cơ lợi dụng sự chênh lệch pháp lý. Đồng thời, các cơ quan quản lý cũng nên cảnh giác với các giới hạn của kiểu thử nghiệm quy tắc “cùng rủi ro, cùng quy định” nhằm xác định sớm các chức năng mới để có thể yêu cầu bổ sung các quy định riêng mang tính khái niệm đối với hoạt động tài chính được hỗ trợ bởi công nghệ.  
 
Để xây dựng được các quy định pháp lý phù hợp nhằm khai thác những lợi ích của đổi mới tài chính trong khi vẫn ngăn chặn được rủi ro một cách có hiệu quả, các nhà nghiên cứu kiến nghị cần có một cuộc đối thoại cởi mở với sự tham gia của tất cả các bên có liên quan như cơ quan quản lý, ngành công nghiệp Fintech và giới học thuật để đảm bảo sự hiểu biết chung về các hoạt động Fintech và mô hình kinh doanh cũng như động lực và việc thực hiện các biện pháp về pháp lý phù hợp. Trong khi chưa có đầy đủ các quy định pháp lý có liên quan, để có thể đáp ứng cho cả ba thách thức nói trên, nhiều quốc gia đã tiến hành một cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (Regulatory Sandbox). Mặc dù định dạng của “Regulatory Sandbox” đã thay đổi đáng kể, chúng thường cho phép thử nghiệm các mô hình kinh doanh mới mà chưa có quy định pháp lý chính thức (Trung tâm Tài chính thay thế Cambridge, 2019). Ngoài ra, nhằm cung cấp sự chắc chắn hơn về mặt pháp lý, cơ quan quản lý có thể thực hiện ở một số khu vực pháp lý dưới hình thức giấy phép Fintech (thường dành cho mô hình kinh doanh chuyên dụng hoặc trong một số trường hợp, dưới dạng giấy phép gộp bao gồm đồng thời một số dịch vụ tài chính - ngân hàng, bảo hiểm, quản lý tài sản, cơ sở hạ tầng tài chính) và quy định về DLT.
 
1 Các thuật ngữ khác nhau được sử dụng, trong đó các thuật ngữ nổi bật nhất là tiền điện tử, tài sản điện tử và tài sản kỹ thuật số; ít phổ biến hơn là DLT. 
2 Xem Hohl và cộng sự (2018) về việc thực hiện khuôn khổ Basel cho 100 khu vực pháp lý.
3 Coinlore.com. Số lượng tất cả các đồng tiền được thống kê vào tháng 7/2018.
4 Rauchs và cộng sự. (2018b) giới thiệu sơ đồ toàn bộ DLT được chia thành 12 hệ thống.
5 Mượn thuật ngữ “Gõ vịt” từ lập trình máy tính.


Dương Quốc Anh
Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Ổn định tài chính trong bối cảnh lạm phát và rủi ro địa chính trị tăng cao
Ổn định tài chính trong bối cảnh lạm phát và rủi ro địa chính trị tăng cao
23/05/2023 300 lượt xem
Báo cáo cập nhật về ổn định tài chính toàn cầu, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đã đánh giá tình hình tài chính hiện nay trong bối cảnh lạm phát và rủi ro địa chính trị leo thang.
Khó khăn và thách thức trong công tác điều hành chính sách tiền tệ hiện nay
Khó khăn và thách thức trong công tác điều hành chính sách tiền tệ hiện nay
22/05/2023 387 lượt xem
Có thể nói, công tác điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đối diện với rất nhiều khó khăn và thách thức; đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách phải rất linh hoạt, chủ động thích ứng, kịp thời tham mưu để đề xuất các giải pháp điều hành nhằm hỗ trợ phục hồi nền kinh tế sau khi chịu tác động nghiêm trọng và nặng nề từ đại dịch Covid-19 nhưng vẫn phải đảm bảo mục tiêu ưu tiên hàng đầu đã được luật hóa trong Luật NHNN là kiểm soát lạm phát.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Tiếp lửa cho đà cải thiện môi trường kinh doanh
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: "Tiếp lửa" cho đà cải thiện môi trường kinh doanh
16/05/2023 602 lượt xem
Với vai trò huyết mạch tiền tệ và thanh toán của nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) luôn đi đầu trong công tác cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực canh tranh quốc gia theo định hướng của Chính phủ với 3 trọng tâm đột phá: (i) Triển khai đồng bộ các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp phục hồi sản xuất, kinh doanh, khắc phục các tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19; (ii) Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính và tiếp tục triển khai các giải pháp nhằm duy trì chỉ số chiều sâu thông tin tín dụng, nâng cao độ phủ thông tin tín dụng; (iii) Tập trung đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động ngân hàng và hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt.
Điều hành chính sách tiền tệ hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp và người dân phục hồi sản xuất, kinh doanh
Điều hành chính sách tiền tệ hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp và người dân phục hồi sản xuất, kinh doanh
11/05/2023 831 lượt xem
Thời gian qua, kinh tế thế giới tiếp tục có những diễn biến kém tích cực do hậu quả của đại dịch Covid-19, căng thẳng địa chính trị, rủi ro bất ổn gia tăng, xung đột Nga - Ukraine chưa thể kết thúc. Lạm phát vẫn duy trì ở mức cao tại nhiều quốc gia khiến ngân hàng trung ương (NHTW) các nước giữ lãi suất điều hành ở mức cao và tiếp tục có xu hướng tăng.
Chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng dưới khía cạnh pháp lí - Thực trạng và một số khuyến nghị hoàn thiện
Chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng dưới khía cạnh pháp lí - Thực trạng và một số khuyến nghị hoàn thiện
03/05/2023 1.174 lượt xem
Chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là một trong những hoạt động cần thiết bởi điều này sẽ góp phần quan trọng vào việc đảm bảo sự bình đẳng, trung thực và lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay, khung pháp lí điều chỉnh về vấn đề này chưa thật sự đầy đủ, thống nhất, do đó đã ảnh hưởng đến tính hiệu quả trong việc kiểm soát các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng.
Kinh tế Việt Nam khi gia nhập các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và một số định hướng hoàn thiện
Kinh tế Việt Nam khi gia nhập các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và một số định hướng hoàn thiện
02/05/2023 1.786 lượt xem
Trong bối cảnh nước ta đang hội nhập kinh tế thế giới, việc tích cực đẩy mạnh tham gia vào các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào “sân chơi” mới, đưa những sản phẩm của Việt Nam đến gần hơn với thị trường thế giới.
Dự báo lạm phát Việt Nam và một số kiến nghị
Dự báo lạm phát Việt Nam và một số kiến nghị
28/04/2023 1.602 lượt xem
Năm 2022, lạm phát Việt Nam tăng 3,15% so với bình quân năm 2021, đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát do Quốc hội đề ra, nhưng vẫn cao hơn mức lạm phát bình quân 5 năm giai đoạn 2017 - 2021 (2,98%). Trong đó, một số nhóm hàng có mức tăng rất cao so với mức tăng bình quân 5 năm như giao thông, đồ uống, thiết bị đồ dùng gia đình, văn hóa giải trí; một số nhóm hàng giảm giá mạnh, chủ yếu là nhóm hàng thuộc quản lí của Nhà nước như y tế, giáo dục
Tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó
Tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó
18/04/2023 1.517 lượt xem
Năm 2023, Việt Nam có được những thuận lợi cơ bản từ đà phục hồi kinh tế ấn tượng của năm 2022. Đến nay, Việt Nam có nền kinh tế lớn thứ tư ASEAN và thứ 40 của thế giới, quy mô thương mại quốc tế nằm trong Top 20 của thế giới (đạt gần 740 tỉ USD), là một trong những nền kinh tế được đánh giá là năng động và có độ mở cao nhất thế giới.
Phát hành cam kết bảo lãnh ngân hàng theo ISP98
Phát hành cam kết bảo lãnh ngân hàng theo ISP98
11/04/2023 1.918 lượt xem
Bảo lãnh ngân hàng là một sản phẩm tài chính có vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế. Cùng với bảo lãnh độc lập (demand guarantee), thư tín dụng dự phòng (standby letter of credit) là một hình thức bảo lãnh ngân hàng được sử dụng tại nhiều nước, trong đó có Việt Nam, đặc biệt khi có đối tác đến từ Hoa Kì.
Tín dụng xanh tại Việt Nam: Thực trạng và một số khuyến nghị
Tín dụng xanh tại Việt Nam: Thực trạng và một số khuyến nghị
30/03/2023 4.332 lượt xem
Là một trong những trụ cột chính của hệ thống tài chính xanh, tín dụng xanh đang là chủ đề được rất nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. Mô hình tín dụng xanh đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguồn vốn cần thiết nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến môi trường và khí hậu. Tại Việt Nam, hoạt động tín dụng xanh cũng đã được triển khai thực hiện trong những năm gần đây và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trong nhiều lĩnh vực, bao gồm tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo, nông nghiệp sạch và nông nghiệp công nghệ cao.
Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt
Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt
30/03/2023 2.480 lượt xem
Ngày 28/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1813/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025 (Quyết định số 1813). Sau hơn 01 năm triển khai thực hiện Quyết định số 1813, hoạt động TTKDTM đã đạt được những kết quả tích cực. Thời gian tới, cần sự phối hợp đồng bộ của các bộ, ngành trong xây dựng hành lang pháp lí và đẩy nhanh quá trình kết nối, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư vào hoạt động nghiệp vụ ngân hàng, qua đó tạo điều kiện thúc đẩy thanh toán số, chuyển đổi số ngành Ngân hàng.
Quản lí nhà nước đối với mô hình kinh tế hợp tác xã tại Việt Nam hiện nay và một số khuyến nghị
Quản lí nhà nước đối với mô hình kinh tế hợp tác xã tại Việt Nam hiện nay và một số khuyến nghị
29/03/2023 2.346 lượt xem
Phát triển kinh tế tập thể được xem là xu thế tất yếu trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu, rộng như hiện nay và đây cũng chính là thành phần kinh tế quan trọng bên cạnh kinh tế nhà nước của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tập thể hay mô hình hợp tác xã của nước ta ở thời điểm hiện tại chưa thực sự phát huy hiệu quả theo đúng mục tiêu, chính sách của Nhà nước.
Basel III: Quá trình thực hiện tại Việt Nam và một số khuyến nghị
Basel III: Quá trình thực hiện tại Việt Nam và một số khuyến nghị
27/03/2023 5.583 lượt xem
Hiện nay, bên cạnh Basel II, nhiều ngân hàng Việt Nam cũng đã áp dụng Basel III, IFRS 9. Đây là chuẩn mực quốc tế giúp các ngân hàng nâng cao quản trị rủi ro và cạnh tranh hơn so với các đối thủ cùng Ngành. Bên cạnh đó, điều này cũng góp phần giúp hệ thống tổ chức tín dụng nói chung phát triển hiệu quả và bền vững. Tuy nhiên, tại Việt Nam, việc ứng dụng Basel III vẫn còn nhiều vướng mắc bởi Hiệp ước này có những yêu cầu cao hơn và khắt khe hơn.
Bảo vệ quyền và lợi ích của người mua nợ trong giao dịch mua, bán nợ với các tổ chức tín dụng tại Việt Nam
Bảo vệ quyền và lợi ích của người mua nợ trong giao dịch mua, bán nợ với các tổ chức tín dụng tại Việt Nam
22/03/2023 2.661 lượt xem
Xử lí nợ nhanh chóng và hiệu quả luôn được coi là một trong những mục tiêu cơ bản, quan trọng nhằm đảm bảo an toàn cho các tổ chức tín dụng (TCTD). Có nhiều phương thức khác nhau để TCTD xử lí nợ và trong những năm gần đây, TCTD có xu hướng lựa chọn nhiều hơn việc xử lí nợ thông qua mua, bán nợ với các chủ thể có nhu cầu trên thị trường.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

66.450

67.070

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

66.450

67.050

Vàng SJC 5c

66.450

67.070

Vàng nhẫn 9999

55.750

56.700

Vàng nữ trang 9999

55.600

56.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 23,270 23,640 24,575 25,951 28,261 29,466 163.78 173.39
BIDV 23,320 23,620 24,752 25,940 28,372 29,619 164.31 173.07
VietinBank 23,235 23,655 24,821 25,956 28,606 29,616 164.85 172.8
Agribank 23,270 23,635 24,830 25,832 28,510 29,336 165.92 172.71
Eximbank 23,250 23,630 24,854 25,531 28,548 29,326 165.67 170.18
ACB 23,200 23,700 24,861 25,488 28,689 29,295 165.51 169.86
Sacombank 23,280 23,685 25,018 25,532 28,788 29,304 166.23 171.78
Techcombank 23,310 23,655 24,609 25,935 28,217 29,502 161.45 173.73
LPBank 23,300 23,900 24,794 26,122 28,725 29,665 164.18 175.63
DongA Bank 23,330 23,660 24,880 25,550 28,610 29,320 163.5 170.7
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,20
BIDV
0,10
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,90
7,20
7,20
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,20
Cake by VPBank
1,00
-
-
-
6,00
-
6,00
8,90
-
9,00
9,00
ACB
-
0,50
0,50
0,50
4,60
4,70
4,80
6,40
6,60
6,80
6,90
Sacombank
-
-
-
-
5,30
5,40
5,50
7,30
7,40
7,60
7,90
Techcombank
0,10
-
-
-
5,40
5,40
5,40
7,10
7,10
7,10
7,10
LPBank
-
0,20
0,20
0,20
5,00
5,00
5,00
7,30
7,30
7,70
8,00
DongA Bank
1,00
1,00
1,00
1,00
5,50
5,50
5,50
7,90
7,95
8,00
8,30
Agribank
0,30
-
-
-
4,60
4,60
5,10
5,80
5,80
7,20
7,00
Eximbank
0,20
0,50
0,50
0,50
5,50
5,50
5,50
6,30
6,60
7,10
7,50

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?