Điều hành chính sách tiền tệ hỗ trợ nền kinh tế chống đỡ với đại dịch Covid-19 và định hướng năm 2021
30/03/2021 34.820 lượt xem
Năm 2020 tiếp tục là năm nối tiếp thành công trong công tác điều hành kinh tế vĩ mô nói chung và điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) nói riêng, trong bối cảnh phải đối mặt với khủng hoảng đại dịch Covid-19 toàn cầu cùng với ảnh hưởng khắc nghiệt của thiên tai, dịch bệnh trong nước, diễn biến kinh tế, chính trị khó lường trên thế giới.
 
Công tác điều hành CSTT đã góp phần quan trọng trong việc đạt mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo đà phục hồi nền kinh tế. 
 
1. Bối cảnh thế giới và trong nước năm 2020 và 2 tháng đầu năm 2021
 
Bức tranh toàn cầu năm 2020 khởi đầu ảm đạm với sự bùng phát, lây lan nhanh chóng của đại dịch Covid-19, kéo theo suy thoái kinh tế toàn cầu nghiêm trọng nhất kể từ Đại suy thoái 1929 - 1933. Bên cạnh thiệt hại về con người, do phải cách ly và phong tỏa xã hội, dịch bệnh đã làm tê liệt nhiều hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư toàn cầu; các giao dịch xuyên biên giới sụt giảm mạnh, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao đột ngột, làm “đứt gãy” các chuỗi cung ứng toàn cầu1. Theo IMF2, kinh tế toàn cầu năm 2020 thu hẹp -3,5%, suy thoái nghiêm trọng hơn khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 - 2009 (giảm -0,1%), đặc biệt là tại các nước phát triển3. Thị trường tài chính, tiền tệ thế giới biến động; giá dầu sụt giảm mạnh, có thời điểm giá dầu tương lai lao dốc xuống mức “âm” lần đầu tiên trong lịch sử; chứng khoán toàn cầu giảm sâu, nhiều phiên rơi vào trạng thái “ngắt mạch”, một số thời điểm nhà đầu tư bán tháo chứng khoán và tháo chạy khỏi thị trường mới nổi; giá vàng tăng cao kỷ lục do tâm lý phòng vệ, lo sợ dịch bệnh, xu hướng giảm giá đồng USD và khả năng lạm phát tương lai. Trong bối cảnh đó, hàng loạt các biện pháp hỗ trợ với quy mô lớn nhất trong lịch sử và thực thi chính sách “chưa từng có tiền lệ” đã được chính phủ và ngân hàng trung ương (NHTW) nhiều nước thực hiện nhằm giảm thiểu tác động của dịch bệnh và phục hồi kinh tế, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối và kiểm soát dòng vốn… Bên cạnh đó, năm 2020, thế giới cũng đối mặt với nhiều vấn đề hệ trọng tác động đến việc định hình cục diện kinh tế, chính trị các năm tới đây như căng thẳng thương mại giữa các nước lớn tiếp tục gia tăng (Mỹ - Trung, Trung - Ấn, Trung - Úc…), bầu cử Tổng thống Mỹ, tiến trình Brexit… (Đồ thị 1)
 

 
Trong nước, hai đợt bùng phát Covid-19 đã tác động trực diện, sâu rộng đến nhiều mặt của đời sống kinh tế, xã hội; sản xuất kinh doanh đình trệ, nhiều hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là các lĩnh vực dịch vụ vận tải, kho bãi, du lịch, nhà hàng, khách sạn, vui chơi giải trí…; hàng triệu lao động thiếu, mất việc làm, thu nhập người lao động suy giảm nghiêm trọng. Trong khi đó, biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, thiên tai, hạn hán, lũ lụt tại các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long đã gây thiệt hại nặng nề, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống của hàng triệu người dân. Trước diễn biến đó, Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách phản ứng nhanh nhạy, kịp thời, có hiệu quả cao, xử lý được các vấn đề cấp bách của nền kinh tế, thông qua việc ban hành Kết luận số 77-KL/TW ngày 05/6/2020 của Bộ Chính trị về “Chủ trương khắc phục tác động của đại dịch Covid-19 để phục hồi và phát triển kinh tế đất nước”, vừa mang tính cấp bách vừa căn cơ, chỉ đạo tập trung thực hiện các giải pháp bảo vệ sức khỏe của nhân dân, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đồng thời biến “nguy” thành “cơ” để thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
 
Với sự vào cuộc quyết liệt, tinh thần đoàn kết, đồng lòng của hệ thống chính trị và sự nhiệt tình ủng hộ của các tầng lớp nhân dân, nước ta đã khắc phục khó khăn để vươn lên mạnh mẽ, thực hiện thành công “mục tiêu kép”: Vừa phòng, chống đại dịch Covid-19, vừa phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống nhân dân. Nhờ đó, năm 2020, nền tảng vĩ mô được duy trì ổn định, lạm phát bình quân được kiểm soát ở mức 3,23%, dưới mục tiêu 4% Quốc hội đề ra, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Tăng trưởng kinh tế đạt 2,91%, thuộc nhóm các nước có mức tăng cao nhất trong khu vực và thế giới trong bối cảnh suy thoái nghiêm trọng diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Xu hướng này tiếp diễn trong những tháng đầu năm 2021, theo đó sản xuất tiếp tục hồi phục tích cực với chỉ số sản xuất công nghiệp 2 tháng đầu năm 2021 tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,4%; đầu tư từ ngân sách Nhà nước đạt 9% kế hoạch, đây là tiến độ cao nhất trong 5 năm gần đây; đầu tư FDI thực hiện tăng 2%; xuất, nhập khẩu tăng mạnh 23,2% và 25,9% so với cùng kỳ năm 2020;…
 
2. Dấu ấn điều hành CSTT của NHNN ứng phó với đại dịch Covid-19
 
Những kết quả nổi bật trên đây có sự đóng góp đáng kể của ngành Ngân hàng. Các giải pháp tiền tệ, tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp, người dân ứng phó với các cú sốc nêu trên đã được NHNN chủ động triển khai quyết liệt, kịp thời, góp phần quan trọng trong việc đạt mục tiêu kiểm soát lạm phát, củng cố nền tảng vĩ mô, duy trì môi trường kinh doanh lành mạnh, hỗ trợ đà phục hồi tăng trưởng kinh tế. Cụ thể:
 
Thứ nhất, điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ CSTT để ổn định thị trường, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ kinh tế ứng phó với tác động bất lợi của đại dịch Covid-19. Các công cụ CSTT được điều hành đồng bộ, linh hoạt; đồng thời, CSTT cũng được phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác để điều tiết thanh khoản, kiểm soát tiền tệ, giảm thiểu áp lực gia tăng lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế4. Lạm phát cơ bản bình quân ổn định ở mức 2,31% (năm 2019 là 2,01%) cho thấy sự phù hợp của công tác điều hành CSTT, đóng góp tích cực đến việc ổn định lạm phát bình quân chung. Lạm phát được kiểm soát ổn định đã tạo lập nền tảng vững chắc, duy trì niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp đối với môi trường kinh doanh Việt Nam, góp phần thu hút đầu tư nước ngoài. (Đồ thị 2)
 

 
Thứ hai, liên tục điều chỉnh giảm đồng bộ các mức lãi suất với quy mô lớn, để hỗ trợ nền kinh tế5. Tính chung trong năm 2020 và 2 tháng đầu năm 2021, NHNN đã điều chỉnh giảm 1,5 - 2,0%/năm lãi suất điều hành6, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng (TCTD) tiếp cận nguồn vốn chi phí thấp từ NHNN; giảm 1,5%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với các lĩnh vực ưu tiên để hỗ trợ giảm chi phí vay vốn của doanh nghiệp, người dân. Đồng thời, chỉ đạo các TCTD chủ động cân đối khả năng tài chính để áp dụng lãi suất cho vay hợp lý; triệt để tiết giảm chi phí hoạt động, tập trung mọi nguồn lực để giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn. So với các nước trong khu vực, Việt Nam là một trong các quốc gia có mức giảm lãi suất điều hành mạnh nhất7.
 
Nhờ đó, mặt bằng lãi suất thị trường giảm, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với các lĩnh vực ưu tiên của TCTD giảm 1,5%/năm so với cuối năm 2019 (cuối năm 2020 là 4,5%/năm); lãi suất cho vay bình quân của các NHTM áp dụng cho các khoản vay mới phát sinh giảm hơn 1%/năm trong năm 2020 và tiếp tục giảm 0,07%/năm đến hết tháng 01/2021. (Đồ thị 3)

 
Thứ ba, song song với định hướng giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, NHNN đã ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19, tạo hành lang pháp lý, cơ chế đột phá để các TCTD tháo gỡ khó khăn về vốn vay cho khách hàng (cơ cấu lại nợ gốc và lãi, không chuyển nhóm nợ, không tính lãi phạt, miễn, giảm lãi, phí), đồng thời liên tục tổ chức các hội nghị kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp trên toàn quốc, khảo sát thực địa, tiếp nhận và giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc của người dân, doanh nghiệp.
 
Đến 22/02/2021, hệ thống các TCTD đã: (1) Cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 265.191 khách hàng bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 với dư nợ 366.309 tỷ đồng; (2) Miễn, giảm, hạ lãi suất cho 625.064 khách hàng với dư nợ 1.061.522 tỷ đồng; (3) Cho vay mới lãi suất ưu đãi với doanh số lũy kế từ 23/01/2020 đến 22/02/2021 đạt 2.655.887 tỷ đồng cho 426.134 khách hàng. Ngoài ra, Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) đã thực hiện gia hạn nợ cho 169.770 khách hàng với dư nợ 4.230 tỷ đồng, cho vay mới đối với 2.258.413 khách hàng với số tiền 81.000 tỷ đồng. (Bảng 1)

 
Thứ tư, trong bối cảnh cầu tín dụng của nền kinh tế suy yếu do tác động tiêu cực của dịch bệnh Covid-19, NHNN đã chỉ đạo các TCTD tập trung mọi nguồn lực, cải thiện quy trình, thủ tục cho vay để nâng cao khả năng tiếp cận vốn của nền kinh tế, giảm lãi suất cho vay và lợi nhuận để hỗ trợ khách hàng; đồng thời, NHNN chủ động thường xuyên rà soát để điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho các TCTD có khả năng mở rộng tín dụng an toàn, lành mạnh. Với việc triển khai kịp thời các giải pháp đồng bộ, quyết liệt của NHNN cùng sự tích cực, chủ động vào cuộc của hệ thống các TCTD, chia sẻ khó khăn với nền kinh tế, song song với sự phục hồi nhanh của nền kinh tế, tín dụng ngân hàng tăng nhanh hơn từ giữa quý III/2020. Đến cuối năm 2020, dư nợ tín dụng toàn hệ thống tăng 12,17% so với cuối năm 2019, ngày 08/3/2021 tiếp tục tăng 0,61% so với cuối năm 2020, tăng trưởng tín dụng đảm bảo phù hợp với chỉ tiêu định hướng, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, đi đôi với chất lượng tín dụng. Cơ cấu tín dụng tiếp tục có sự điều chỉnh tích cực, tín dụng có xu hướng tập trung vào các lĩnh vực có đóng góp và là động lực của tăng trưởng kinh tế như lĩnh vực sản xuất kinh doanh8, lĩnh vực ưu tiên9; trong khi đó, tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được hệ thống các TCTD kiểm soát chặt chẽ10.
 
Thứ năm, điều hành, công bố tỷ giá trung tâm linh hoạt hàng ngày, phù hợp với thị trường trong và ngoài nước, cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu CSTT; góp phần hạn chế tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ và hấp thu các cú sốc đối với nền kinh tế. Đồng thời, kết hợp với các giải pháp điều tiết thanh khoản hợp lý, chủ động truyền thông, can thiệp mua/bán ngoại tệ với TCTD để bình ổn thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát.
 
Nhờ đó, cuối năm 2020, tỷ giá trung tâm ở mức 23.131 VND/USD, giảm -0,1% cuối năm 2019; tỷ giá bình quân liên ngân hàng khoảng 23.090 VND/USD, giảm -0,35% so với cuối năm 2019. Thanh khoản thị trường tốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Dự trữ ngoại hối Nhà nước tăng cao giúp gia tăng tiềm lực tài chính và củng cố uy tín quốc gia. Thị trường ngoại tệ duy trì ổn định trong những tháng đầu năm 2021, theo đó ngày 11/3/2021, tỷ giá trung tâm ở mức 23.204 VND/USD, tăng 0,32% so với mức cuối năm 2020; tỷ giá bình quân liên ngân hàng ở mức 23.051 VND/USD, giảm -0,17% so với cuối năm 2020.
 
Thứ sáu, CSTT cũng được điều hành phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách khác. NHNN thường xuyên trao đổi thông tin, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành trong công tác điều hành CSTT, giá hàng hóa dịch vụ, dự báo lạm phát; đồng thời, phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính trong trao đổi thông tin về tiền gửi có kỳ hạn của Kho bạc Nhà nước tại hệ thống ngân hàng, qua đó ổn định thanh khoản hệ thống, kiểm soát tiền tệ, tạo điều kiện để giảm lãi suất trái phiếu chính phủ khoảng 0,78 - 1,41%/năm ở các kỳ hạn 5 - 30 năm so với cuối năm 2019 và kéo dài kỳ hạn phát hành (tập trung ở kỳ hạn 10 - 15 năm, chiếm khoảng 80% khối lượng phát hành) trong năm 2020. Tình hình thực tế trong 2 tháng đầu năm 2021 cho thấy, mặt bằng lãi suất trái phiếu chính phủ tiếp tục xu hướng giảm khoảng 0,1 - 0,19%/năm ở các kỳ hạn; đến cuối tháng 2/2021, lãi suất kỳ hạn 5 năm là 1,03%/năm; 10 năm là 2,17%/năm; 15 năm là 2,4%/năm; 20 năm: 2,89%/năm; 30 năm là 3,01%/năm.
 
Những kết quả tích cực về ổn định vĩ mô, thị trường tài chính tiền tệ, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế... cho thấy, các giải pháp ngành Ngân hàng thực thi thời gian qua là đúng hướng, có tác dụng thiết thực đối với các doanh nghiệp và người dân, góp phần thực hiện thắng lợi “mục tiêu kép” và đóng góp lớn vào thành tựu chung về các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội của cả nước mà Đảng và Quốc hội đã đề ra, tạo nền tảng vững chắc tiếp tục thực hiện các mục tiêu trong giai đoạn tới. Mặc dù vậy, thị trường thế giới còn diễn biến bất thường, đặc biệt đại dịch Covid-19, thiên tai, dịch bệnh diễn biến khó lường còn tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế và hệ thống ngân hàng trong nước, tăng trưởng kinh tế ở mức thấp (mặc dù là số ít trong các quốc gia có tăng trưởng dương), lạm phát vẫn chịu áp lực khó lường từ giá cả thế giới, áp lực nợ xấu hệ thống ngân hàng gia tăng từ tác động của đại dịch... là những thách thức to lớn đối với ngành Ngân hàng trong thời gian tới.
 
3. Triển vọng kinh tế năm 2021
 
Năm 2021, kinh tế thế giới được dự báo sẽ phục hồi nhanh hơn kỳ vọng do quá trình tiêm chủng vaccine ngừa Covid-19 đang diễn ra khá nhanh và sự thích nghi với dịch bệnh của các nền kinh tế, các tổ chức quốc tế dự báo kinh tế thế giới năm 2021 tăng trưởng khoảng 4,0 - 5,6%. Tuy nhiên, kinh tế thế giới vẫn còn tiềm ẩn nhiều bất trắc và rủi ro khi đại dịch Covid-19 chưa kết thúc, thị trường dầu mỏ, giá vàng, đồng USD… có thể biến động thất thường, xu hướng bảo hộ, cạnh tranh chiến lược giữa một số quốc gia, khu vực tiếp tục diễn ra gay gắt, nợ công trên phạm vi toàn cầu, từ đó kéo theo những nguy cơ, thách thức mới về tăng trưởng, bất bình đẳng xã hội, nghèo đói và các vấn đề an sinh xã hội khác. Các quốc gia trên thế giới tiếp tục duy trì các giải pháp hỗ trợ phục hồi kinh tế, điều này sẽ là tiền đề, cơ hội tốt để một nền kinh tế hội nhập, có độ mở cao như nước ta có nhiều dư địa “đi tắt, đón đầu” vươn lên phát triển nhanh và bền vững hơn. Các tổ chức quốc tế dự báo kinh tế Việt Nam năm 2021 thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao so với khu vực và thế giới, từ 6,1 - 8,6%11. Mặc dù vậy, dự báo chúng ta tiếp tục còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Diễn biến khó lường của dịch bệnh trong và ngoài nước, cùng với việc tái áp dụng các biện pháp kiểm soát, phong tỏa, có thể ảnh hưởng tiêu cực tới triển vọng kinh tế năm 2021. Nguồn lực trong nước còn hạn hẹp trong khi phải đáp ứng cùng lúc các yêu cầu rất lớn cho đầu tư phát triển, phòng, chống dịch bệnh, bảo đảm an sinh xã hội. Tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn ngày càng nghiêm trọng. Bên cạnh đó, xu hướng dịch chuyển đầu tư, thương mại, chuyển đổi số, sự phát triển các mô hình kinh doanh mới, sự thay đổi phương thức sản xuất, tiêu dùng và giao tiếp trên toàn cầu, sự phát triển mạnh mẽ của các ứng dụng khoa học công nghệ từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư… vừa là thời cơ, nhưng cũng là thách thức đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục nỗ lực đổi mới, hành động quyết liệt hơn, hiệu quả hơn trong năm 2021 và những năm tiếp theo.
 
4. Định hướng điều hành CSTT năm 2021
 
Trong bối cảnh thời cơ, thuận lợi, khó khăn, thách thức đan xen, kế thừa những thành tựu quan trọng và toàn diện đã đạt được trong năm 2020 và các năm trước đó, công tác điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng năm 2021 sẽ bám sát diễn biến trong, ngoài nước để cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021 được Quốc hội, Chính phủ đề ra. Đồng thời, NHNN sẽ tiếp tục chủ động, linh hoạt, nỗ lực chung tay cùng các bộ, ngành hỗ trợ nền kinh tế kiên cường vượt qua đại dịch, ổn định kinh tế vĩ mô và lạm phát, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh. Trong đó, tập trung vào các giải pháp trọng tâm sau đây: 
 
Một là, tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn triển khai đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 mà trọng tâm là sửa đổi, bổ sung Thông tư 01/2020/TT-NHNN; hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh; hỗ trợ và tạo điều kiện để NHCSXH thực hiện tốt các chương trình, chính sách tín dụng ưu đãi theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Chỉ đạo TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực rủi ro; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng, góp phần hạn chế tín dụng đen. 
 
Hai là, theo dõi sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, tình hình dịch bệnh trong nước và quốc tế để chủ động điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ CSTT, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu năm 2021 bình quân khoảng 4%, hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần phục hồi tăng trưởng kinh tế, duy trì ổn định thị trường tiền tệ và ngoại hối. Điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát, diễn biến thị trường và mục tiêu CSTT, tạo điều kiện giảm chi phí vốn cho người dân, doanh nghiệp và nền kinh tế. Điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường trong và ngoài nước, các cân đối vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu CSTT; tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước khi điều kiện thị trường thuận lợi.
 
Ba là, tiếp tục nâng cao hiệu quả, hiệu lực điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng góp phần thúc đẩy hiệu quả chu chuyển vốn trong nền kinh tế: (1) Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống ngân hàng gắn với xử lý nợ xấu; (2) Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành triển khai hiệu quả các mô hình thanh toán tại nông thôn, vùng sâu, vùng xa gắn với triển khai mạnh mẽ Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, thực hiện chủ trương “không để ai bị bỏ lại phía sau” của Chính phủ; (3) Đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, xây dựng hạ tầng công nghệ, nâng cao chất lượng thanh toán, đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động thanh toán, mở rộng thanh toán điện tử khu vực Chính phủ, dịch vụ công, đẩy nhanh chuyển đổi số hoạt động ngân hàng.

 
1 WTO (10/2020) dự báo thương mại toàn cầu năm 2020 giảm 9,2%; WB (1/2021) ước thương mại toàn cầu năm 2020 giảm 9,5%.
 
2 IMF (1/2020), Báo cáo Cập nhật Triển vọng kinh tế toàn cầu.
 
3 Tăng trưởng GDP năm 2020 của Mỹ là -3,4%; châu Âu: -7,2%; Nhật Bản: -5,1%; Anh: -10%; Canada: -5,5%.
 
4 Để hỗ trợ doanh nghiệp, người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, NHNN kịp thời ban hành Thông tư 05/2020/TT-NHNN ngày 07/5/2020 và Thông tư số 12/2020/TT-NHNN ngày 11/11/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 05/2020/TT-NHNN về việc tái cấp vốn đối với NHCSXH để NHCSXH cho người sử dụng lao động vay trả lương ngừng việc đối với người lao động theo Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg và Quyết định số 32/2020/QĐ-TTg, với tổng số tiền tái cấp vốn tối đa 16.000 tỷ đồng, lãi suất 0%/năm, thời hạn NHNN giải ngân tái cấp vốn đối với NHCSXH đến hết ngày 31/01/2021...
 
5Cụ thể: (1) Ngày 17/3/2020, NHNN giảm 0,5 - 1%/năm lãi suất điều hành; giảm 0,25 - 0,3%/năm trần lãi suất tiền gửi VND các kỳ hạn dưới 6 tháng và giảm 0,5%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với các lĩnh vực ưu tiên. (2) Ngày 13/5/2020, NHNN tiếp tục điều chỉnh giảm 0,5%/năm các mức lãi suất điều hành; giảm 0,3 - 0,5%/năm trần lãi suất tiền gửi VND các kỳ hạn dưới 6 tháng và giảm 0,5%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với các lĩnh vực ưu tiên. (3) Tiếp đó, ngày 01/10/2020, NHNN tiếp tục giảm đồng bộ 0,5%/năm các mức lãi suất điều hành, giảm 0,25%/năm trần lãi suất tiền gửi VND từ 1 đến dưới 6 tháng và giảm 0,5%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với các lĩnh vực ưu tiên.
 
6Lãi suất tái cấp vốn giảm từ mức 6,0%/năm xuống 4,0%/năm; Lãi suất tái chiết khấu giảm từ mức 4,0%/năm xuống 2,5%/năm; Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN với các ngân hàng giảm từ mức 7%/năm xuống mức 5,0%/năm; Lãi suất chào mua giấy tờ có giá trên thị trường mở giảm từ 4,0%/năm xuống 2,5%/năm.
 
7 Mức giảm lãi suất điều hành của một số NHTW châu Á tính chung trong năm 2020 và 2 tháng đầu năm 2021 như sau: Philippines: -2%; Thái Lan: -0,75%; Malaysia: - 1,25%; Indonesia: -1,5%; Ấn Độ: -1,15%; Trung Quốc: -0,3%.
 
8 Đến tháng 12/2020, tín dụng đối với ngành công nghiệp tăng 11,18% so với cuối năm 2019, chiếm 18,85% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống; tín dụng đối với ngành xây dựng tăng 6,47%, chiếm 9,29%; tín dụng đối với ngành dịch vụ tăng 13,9%, chiếm 63,43%.
 
9 Đến tháng 12/2020, tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tăng 11,52%, chiếm 24,78% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống; tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng 13,56%, chiếm 19,8%; tín dụng đối với lĩnh vực xuất khẩu tăng 13,66%, chiếm 2,96%; tín dụng đối với doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 5,26%, chiếm 0,35%.
 
10 Đến cuối tháng 12/2020, dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản (bao gồm cả mục đích kinh doanh và mục đích tự sử dụng) tăng 11,89% so với cuối năm 2019, chiếm 19,56% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống. 
 
11 IMF (BC Đoàn Điều IV, 3/2021): 6,5%; WB (01/2021): 6,7%; ADB (12/2020): 6,1%; HSBC (1/2021): 7,6%; Standard Chartered (1/2021): 7,8%; Fitch Solutions (1/2021): 8,6%.


ThS. Phạm Thanh Hà

Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, NHNN

Tạp chí Ngân hàng số 6/2021
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Nâng cao hiệu quả quản lý gian lận số tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nâng cao hiệu quả quản lý gian lận số tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
24/04/2024 217 lượt xem
Thời gian qua, quá trình số hóa diễn ra liên tục và mạnh mẽ trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và đã mang lại những lợi ích đáng kể cho sự ổn định của khu vực tài chính nói riêng, sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Nhờ quá trình này mà các tổ chức tài chính có khả năng cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính, ngân hàng với chi phí thấp hơn, giúp nâng cao trải nghiệm và khả năng tiếp cận sản phẩm, dịch vụ của khách hàng, tăng cường minh bạch trong giao dịch tài chính và phản ứng nhanh chóng với các cuộc khủng hoảng.
Chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức, doanh nghiệp - định hướng  phát triển trong thời đại 4.0
Chia sẻ dữ liệu giữa các tổ chức, doanh nghiệp - định hướng phát triển trong thời đại 4.0
23/04/2024 220 lượt xem
Dữ liệu đóng vai trò thiết yếu trong hoạt động của hầu hết các doanh nghiệp. Việc chia sẻ dữ liệu mở ra những cơ hội mới, tạo thêm nhiều giá trị, đồng thời góp phần bồi đắp kho dữ liệu hiện có, khai phá tiềm năng tối ưu hóa và đổi mới mô hình kinh doanh.
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đám bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đám bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
19/04/2024 0 lượt xem
Do nhu cầu tài chính phục vụ cho quá trình chuyển đổi của các doanh nghiệp ngày càng cao nên thị trường tín dụng liên kết bền vững toàn cầu tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Việt Nam cần nhanh chóng thúc đẩy và mở rộng hoạt động cho vay nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp ở đa dạng ngành, nghề thực hiện chiến lược phát triển bền vững.
Thực hiện tăng trưởng xanh - Tiền đề cho phát triển bền vững của Việt Nam
Thực hiện tăng trưởng xanh - Tiền đề cho phát triển bền vững của Việt Nam
12/04/2024 1.035 lượt xem
Phát triển bền vững đang là mục tiêu quan trọng của Việt Nam trong những năm qua và trong tương lai, theo đó tăng trưởng xanh với sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường chính là tiền đề để thực hiện mục tiêu này.
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
Thúc đẩy tín dụng liên kết bền vững đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và phát triển bền vững ở Việt Nam
10/04/2024 1.077 lượt xem
Bài viết đề xuất một số khuyến nghị về xây dựng, thực thi chính sách tín dụng liên kết bền vững để góp phần đảm bảo tiến độ thực hiện cam kết Net-Zero Carbon và chiến lược phát triển bền vững tại Việt Nam...
Thực tiễn triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Thực tiễn triển khai ESG tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
05/04/2024 1.359 lượt xem
Nghiên cứu trình bày về tầm quan trọng của ESG (Environmental - môi trường, Social - xã hội, Governance - quản trị) trong quá trình phát triển bền vững của ngân hàng, thực tiễn triển khai các hoạt động về ESG, các kết quả đạt được và thách thức, từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩy triển khai ESG trong hệ thống ngân hàng tại Việt Nam.
Tác động của minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Tác động của minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội đến hiệu quả tài chính tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
03/04/2024 1.251 lượt xem
Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu tác động của tính minh bạch và công bố thông tin trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (Corporate social responsibility - CSR) đến hiệu quả tài chính của các ngân hàng.
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư vốn nhà nước tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
02/04/2024 1.142 lượt xem
Bài viết dựa trên cơ sở tổng quan về giám sát tài chính, tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới để rút ra một số bài học và khuyến nghị đối với công tác giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước tại Việt Nam hiện nay.
Kinh nghiệm thực thi chính sách tài chính khí hậu trên thế giới và một số khuyến nghị cho Việt Nam
Kinh nghiệm thực thi chính sách tài chính khí hậu trên thế giới và một số khuyến nghị cho Việt Nam
01/04/2024 1.142 lượt xem
Một trong những vấn đề khó khăn nhất hiện nay đối với các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, đó là việc thiếu nguồn lực tài chính để ứng phó với biến đổi khí hậu, hay còn gọi là tài chính khí hậu...
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Xây dựng Sổ tay kiểm toán nội bộ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/03/2024 1.223 lượt xem
Để nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm toán nội bộ NHNN phù hợp thông lệ quốc tế và các quy định về kiểm toán nội bộ của Việt Nam, một trong những yêu cầu hiện nay là nghiên cứu, rà soát, ban hành Sổ tay Kiểm toán nội bộ NHNN nhằm tập hợp, hệ thống hóa các quy định chung về kiểm toán nội bộ của NHNN.
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Nâng cao chất lượng Chatbot chăm sóc khách hàng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
25/03/2024 1.621 lượt xem
Trong kỉ nguyên số, Chatbot đóng vai trò vô cùng quan trọng và được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội, trong đó có lĩnh vực ngân hàng.
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
Hạch toán phái sinh ngoại hối tại các tổ chức tín dụng và công tác quản lý ngoại hối của cơ quan nhà nước
22/03/2024 2.370 lượt xem
Trong thị trường kinh tế, giao dịch phái sinh là một dạng hợp đồng dựa trên giá trị các loại tài sản cơ sở khác nhau như hàng hóa, chỉ số, lãi suất hay cổ phiếu (giấy tờ có giá).
Văn hóa số và lộ trình xây dựng
Văn hóa số và lộ trình xây dựng
11/03/2024 2.617 lượt xem
Hiện nay, quyết liệt chuyển đổi số, tạo dựng hệ sinh thái ngân hàng mở, tạo ra nền tảng phát triển bán lẻ, tăng doanh thu dịch vụ, gia tăng trải nghiệm của khách hàng là xu hướng chủ đạo của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam.
Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Nhìn từ bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay
Vượt qua bẫy thu nhập trung bình: Nhìn từ bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay
07/03/2024 3.657 lượt xem
Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ quốc gia có thu nhập thấp sang quốc gia có thu nhập trung bình. Song, những khó khăn nội tại và thách thức bên ngoài của nền kinh tế làm cho nguy cơ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình là có thể.
Động lực và kì vọng mới cho tương lai
Động lực và kì vọng mới cho tương lai
07/03/2024 2.474 lượt xem
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và phu nhân Lê Thị Bích Trân cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã bắt đầu chuyến công tác tham dự Hội nghị cấp cao đặc biệt kỷ niệm 50 năm quan hệ ASEAN - Australia; thăm chính thức Australia và New Zealand từ ngày 05 - 11/3/2024 theo lời mời của Thủ tướng Australia Anthony Albanese và Thủ tướng New Zealand Christopher Luxon.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

81.000

83.500

Vàng SJC 5c

81.000

83.520

Vàng nhẫn 9999

74.200

76.100

Vàng nữ trang 9999

74.000

75.300


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 25,145 25,485 26,411 27,860 30,670 31,974 159.56 168.87
BIDV 25,185 25,485 26,528 27,748 30,697 31,977 159.6 168
VietinBank 25,160 25,485 26,651 27,946 31,096 32,106 161.07 169.02
Agribank 25,180 25,485 26,599 27,900 30,846 32,001 160.64 168.67
Eximbank 25,160 25,485 26,632 27,531 30,915 31,959 161.35 166.79
ACB 25,190 25,485 26,768 27,476 31,178 31,876 161.53 166.97
Sacombank 25,250 25,485 26,880 27,440 31,315 31,817 162.5 167.51
Techcombank 25,228 25,485 26,523 27,869 30,720 32,037 157.83 170.27
LPBank 24,943 25,485 26,344 27,844 31,044 31,948 159.37 170.59
DongA Bank 25,250 25,485 26,760 27,440 31,070 31,920 159.80 166.90
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,60
1,60
1,90
2,90
2,90
4,60
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?