Đại dịch Covid-19 đã mang đến một năm đầy khó khăn, thách thức và tác động tới mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của hầu hết các quốc gia trên thế giới...
Đại dịch Covid-19 và thiên tai đã tác động nặng nề đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội và hệ thống ngân hàng Việt Nam
Đại dịch Covid-19 đã mang đến một năm đầy khó khăn, thách thức và tác động tới mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của hầu hết các quốc gia trên thế giới, tác động tiêu cực tới cung - cầu thị trường, làm đứt gãy chuỗi cung ứng sản xuất, tác động bất lợi đến doanh thu, khả năng thanh toán của khu vực doanh nghiệp, gia tăng tỷ lệ người lao động mất việc làm, giảm nhu cầu đầu tư và tiêu dùng của nền kinh tế. Mặc dù là một trong số ít các quốc gia kiểm soát tốt dịch bệnh và duy trì được mức tăng trưởng dương nhưng tác động của đại dịch Covid-19 đối với Việt Nam vẫn rất nặng nề, mọi hoạt động thương mại, đầu tư, du lịch, sản xuất kinh doanh (cả phía cung và cầu) bị đình trệ; có 101.700 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 13,9% so với năm 2019 và là mức kỷ lục từ trước đến nay; tăng trưởng GDP đạt 2,91%, mặc dù thuộc nhóm 10 nước có mức tăng trưởng cao nhất thế giới, nhưng lại là mức tăng thấp nhất của Việt Nam trong giai đoạn 2011 - 2020.
Với vai trò huyết mạch của nền kinh tế, ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến hoạt động của hệ thống ngân hàng rất nặng nề. Đại dịch Covid-19 đã khiến hơn 2,3 triệu tỷ đồng dư nợ bị ảnh hưởng do khách hàng không thể trả nợ đúng hạn, chiếm khoảng 27% tổng dư nợ nền kinh tế. Trong đó, một số ngành có tỉ lệ dư nợ bị ảnh hưởng lớn là: Công nghiệp chế biến - chế tạo (chiếm 18,7% tổng dư nợ bị ảnh hưởng và 37% dư nợ của Ngành); bán buôn - bán lẻ (chiếm lần lượt 18,2% và 24%); xây dựng (11,4% và 32%); nông - lâm - thủy sản (6,9% và 22%); vận tải - kho bãi (3,6% và 42%); dịch vụ lưu trú - ăn uống (3,1% và 40%); hoạt động dịch vụ khác (7,8% và 34%). Những khó khăn mà đại dịch Covid-19 mang lại không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng mà còn tác động tiêu cực đến mọi mặt công tác cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), đặc biệt là trong công tác nâng cao năng lực tài chính, cơ cấu lại danh mục đầu tư, thoái vốn, tìm nhà đầu tư chiến lược, tăng vốn điều lệ, xử lý nợ xấu và hạn chế nợ xấu phát sinh…
Cùng với tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, đất nước ta còn gánh chịu thêm hậu quả nghiêm trọng bởi hạn mặn lịch sử xảy ra tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và các cơn bão, lũ, sạt lở đất tại các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên. Trong đó, dư nợ bị ảnh hưởng bởi dịch Covid đến nay khoảng 2,3 triệu tỷ đồng, bởi hạn mặn là 11,1 nghìn tỷ đồng, bởi bão lũ miền Trung - Tây Nguyên khoảng 34 nghìn tỷ đồng. Những thiệt hại này làm tăng thêm khó khăn cho nền kinh tế và ảnh hưởng nặng nề hơn đến đời sống nhân dân.
Chủ động chia sẻ, đồng hành, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân tháo gỡ khó khăn, phục hồi sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Nhận thức rõ tác động tiêu cực của dịch bệnh đến nền kinh tế và đời sống nhân dân, thực hiện chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là một trong các bộ, ngành vào cuộc từ rất sớm và chủ động chỉ đạo các đơn vị thuộc NHNN, hệ thống các TCTD nỗ lực tập trung thực hiện cả 3 nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu: (i) vừa phòng, chống dịch, vừa xây dựng và triển khai các phương án đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, thông suốt trong mọi trường hợp; (ii) triển khai đồng bộ các giải pháp duy trì ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, tập trung nội lực tiếp tục thực hiện phương án cơ cấu lại, gắn với xử lý nợ xấu; (iii) triển khai ngay các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn trước mắt, từng bước phục hồi sản xuất kinh doanh. Trong đó, NHNN đã chỉ đạo các đơn vị trong toàn Ngành triển khai chuỗi giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp và người dân tháo gỡ khó khăn, phục hồi sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thực hiện chỉ đạo của NHNN, các đơn vị trong ngành Ngân hàng đã khẩn trương vào cuộc và nỗ lực tổ chức triển khai các giải pháp cấp bách ứng phó với dịch bệnh và hỗ trợ doanh nghiệp, người dân khắc phục khó khăn. Với sự vào cuộc chủ động từ rất sớm, các giải pháp của ngành Ngân hàng đã giúp bản thân hệ thống ngân hàng và nền kinh tế giảm bớt tác động tiêu cực của dịch bệnh. Kết quả cụ thể được thể hiện như sau:
Một là, ban hành kịp thời các chính sách hỗ trợ và chỉ đạo triển khai quyết liệt trong toàn Ngành
Ngay khi dịch Covid-19 xảy ra, NHNN đã ban hành các văn bản và tổ chức làm việc trực tiếp với các TCTD để yêu cầu rà soát, đánh giá mức độ ảnh hưởng của dịch bệnh đối với khách hàng và xây dựng các chương trình, kịch bản hành động của TCTD để tháo gỡ khó khăn cho khách hàng. Đồng thời, NHNN ban hành một loạt các văn bản làm cơ sở pháp lý cho các TCTD thực hiện các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, như: Thông tư 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020, cho phép các TCTD cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ, miễn, giảm lãi, phí thanh toán và lãi vay cho khách hàng; Chỉ thị 02/CT-NHNN ngày 31/3/2020, yêu cầu các TCTD tiết giảm chi phí hoạt động để có điều kiện giảm lãi suất ở mức tối đa; lùi 01 năm lộ trình áp dụng tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và dài hạn, tạo điều kiện cho các TCTD có thêm nguồn vốn cho vay trung - dài hạn; hướng dẫn cho vay tái cấp vốn đối với Ngân hàng Chính sách xã hội để cho người sử dụng lao động vay trả lương ngừng việc đối với người lao động và cho vay tái cấp vốn để các TCTD cho vay Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines);...
Đồng thời, NHNN cũng đã thành lập các Đoàn công tác địa phương do Lãnh đạo NHNN làm Trưởng đoàn phối hợp với UBND tỉnh, thành phố tổ chức 15 Hội nghị kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp tại 6 vùng kinh tế trọng điểm của cả nước để nắm bắt tình hình tác động của dịch Covid-19, lắng nghe ý kiến phản ánh của các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tiếp cận chính sách của NHNN, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực chịu ảnh hưởng lớn nhất từ dịch bệnh Covid-19, các lĩnh vực ưu tiên, các đối tượng chính sách...
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, tất cả các TCTD (kể cả công ty tài chính, ngân hàng nước ngoài) đều vào cuộc mạnh mẽ, sử dụng nguồn nội lực tài chính của mình thông qua việc tiết giảm chi phí, cắt giảm lương, giảm lợi nhuận, không chia cổ tức... để hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng. Đến nay, các TCTD đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho khoảng 270 nghìn khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 với dư nợ gần 355 nghìn tỷ đồng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho khoảng 590 nghìn khách hàng với dư nợ trên 1 triệu tỷ đồng; đặc biệt, các TCTD đã cho vay mới lãi suất ưu đãi (thấp hơn phổ biến từ 0,5 - 2,5% so với trước dịch bệnh) với doanh số đạt gần 2,3 triệu tỷ đồng cho hơn 390 nghìn khách hàng.
Bên cạnh đó, trước tình hình hạn hán, xâm nhập mặn tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và mưa lũ đặc biệt lớn kéo dài trên diện rộng tại khu vực miền Trung và Tây Nguyên, NHNN đã chỉ đạo các TCTD, NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố bị ảnh hưởng thống kê, rà soát thiệt hại, kịp thời áp dụng các biện pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng như: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm, hạ lãi suất vay vốn, đơn giản hóa các thủ tục vay vốn để tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận vốn vay khôi phục sản xuất. Đồng thời, NHNN cũng đã tổ chức Hội nghị giải pháp tín dụng hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão, lũ tại các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên để quán triệt và chỉ đạo cụ thể các TCTD triển khai các giải pháp hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng với tinh thần trách nhiệm cao nhất trước Đảng, Chính phủ nhằm hạn chế khó khăn kép cho người dân. Thực hiện chỉ đạo của NHNN, các TCTD đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho 4.712 khách hàng với dư nợ 262 tỷ đồng; miễn, giảm lãi vay cho 30.439 khách hàng với dư nợ 31.958 tỷ đồng; cho vay mới 40.077 khách hàng với số tiền 8.375 tỷ đồng.
Hai là, điều hành chủ động, linh hoạt, thận trọng các công cụ của chính sách tiền tệ góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ đắc lực nền kinh tế ứng phó với tác động bất lợi của đại dịch Covid-19
Trước áp lực không nhỏ từ những khó khăn do đại dịch Covid-19 đối với mục tiêu kiểm soát lạm phát, điều hành lãi suất, tỷ giá, NHNN đã chủ động, linh hoạt điều hành các công cụ chính sách tiền tệ theo đúng chủ trương thực hiện “mục tiêu kép” của Chính phủ, ưu tiên mục tiêu ổn định, củng cố nền tảng vĩ mô, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ duy trì và phục hồi nền kinh tế trong và sau dịch. Trong đó:
Để kịp thời hỗ trợ các TCTD giảm lãi suất cho vay, NHNN đã 03 lần điều chỉnh giảm đồng bộ các mức lãi suất điều hành với tổng mức giảm 1,5 - 2%/năm - là mức giảm mạnh nhất so với các nước trong khu vực; giảm 0,6 - 1,0%/năm trần lãi suất tiền gửi VND các kỳ hạn dưới 6 tháng; giảm 1,5%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn VND đối với các lĩnh vực ưu tiên.
Điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường trong và ngoài nước, cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu chính sách tiền tệ, đảm bảo ổn định thị trường ngoại hối, tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, giúp nền kinh tế hấp thu tốt hơn các cú sốc từ bên ngoài.
Điều tiết linh hoạt thị trường tiền tệ để ổn định và kiểm soát tiền tệ, không tạo áp lực gia tăng lạm phát, hỗ trợ ổn định tỷ giá và mặt bằng lãi suất thị trường.
Ba là, điều hành linh hoạt tăng trưởng tín dụng, đảm bảo cung ứng đủ vốn cho nền kinh tế thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng kinh tế
Trước diễn biến cầu tín dụng giảm mạnh do tác động của dịch Covid-19, NHNN đã chủ động triển khai nhiều giải pháp mở rộng tín dụng hiệu quả để thúc đẩy phục hồi và tăng trưởng kinh tế, như:
- Chủ động điều chỉnh tăng mức tăng trưởng tín dụng cho nhiều TCTD có khả năng mở rộng tín dụng lành mạnh vào các lĩnh vực phục vụ cho tăng trưởng kinh tế; ưu tiên chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng ở mức cao hơn đối với TCTD có tỷ lệ nợ xấu thấp, tích cực giảm lãi suất cho vay và tập trung vốn vào các lĩnh vực ưu tiên.
- Chỉ đạo các TCTD triển khai nhiều chương trình, sản phẩm tín dụng với lãi suất ưu đãi, cải tiến quy trình nội bộ, giảm bớt hồ sơ, thủ tục vay vốn, nâng cao khả năng thẩm định, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong cung cấp dịch vụ, tăng cường cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, mở rộng các sản phẩm tín dụng phục vụ đời sống, tín dụng tiêu dùng hiệu quả, tạo điều kiện tối đa cho khách hàng vay vốn thuận lợi.
Nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của NHNN và sự nỗ lực vào cuộc của các TCTD, tín dụng từng bước được cải thiện. Trong 6 tháng đầu năm 2020, tốc độ tăng trưởng tín dụng chỉ đạt 3,65% - là mức thấp nhất so với cùng kỳ các năm trong giai đoạn 2016 - 2020, nhưng đến hết năm 2020, tăng trưởng tín dụng đã đạt 12,13%, thấp hơn không đáng kể so với mức tăng 13,65% của năm 2019. Trong đó, tín dụng dành cho lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng trưởng đều và chiếm tỷ trọng khoảng 20% tổng dư nợ nền kinh tế; tín dụng lĩnh vực xuất khẩu tăng trưởng mạnh (+10%), góp phần tích cực thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam tăng 5,5% trong khi xuất khẩu các nước trong khu vực đều giảm.
Bốn là, đẩy mạnh các giải pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt và miễn giảm các loại phí dịch vụ, phí thanh toán để hỗ trợ nền kinh tế, trong đó:
NHNN đã chỉ đạo các TCTD đẩy mạnh các dịch vụ thanh toán trực tuyến, xây dựng, hoàn thiện và nâng cấp hạ tầng thanh toán quốc gia tạo cơ sở để triển khai các sản phẩm, dịch vụ mới, giúp người dân hạn chế tiếp xúc trực tiếp nhằm giảm nguy cơ lây nhiễm dịch bệnh.
Chỉ đạo Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) giảm mức thu dịch vụ thông tin tín dụng trên quy mô lớn; Công ty Cổ phần Thanh toán Quốc gia Việt Nam (NAPAS) miễn, giảm phí chuyển mạch, giúp TCTD giảm chi phí giao dịch cho khách hàng. Tính chung cả năm 2020, ngành Ngân hàng đã miễn, giảm các loại phí thanh toán cho khách hàng lên đến hơn 1 nghìn tỷ đồng.
Với việc triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp hỗ trợ nền kinh tế từ rất sớm, ngành Ngân hàng đã góp phần rất quan trọng kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh Việt Nam chịu tác động kép nặng nề từ đại dịch Covid-19 và thiên tai, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Trong đó, nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là có sức chống chịu khá cao và là một trong số ít các nền kinh tế tăng trưởng dương về GDP bình quân đầu người và vẫn kiềm chế được lạm phát ở mức dưới 4% (năm 2020 ở mức 3,23%).
Tiếp tục xác định nhiệm vụ tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và tăng trưởng cao trong năm 2021 là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu
Tình hình dịch bệnh Covid-19 tiếp tục kéo dài ở nhiều khu vực và quốc gia trên thế giới. Các biện pháp kiểm soát, phong tỏa, hạn chế đi lại giữa các nước có thể tiếp tục gây ảnh hưởng lên chuỗi giá trị toàn cầu khi nguồn cung gián đoạn, cầu quốc tế hồi phục khó khăn sẽ tiếp tục tác động tiêu cực đến hoạt động xuất nhập khẩu và du lịch của Việt Nam; ảnh hưởng tới tình hình tài chính và hoạt động của các doanh nghiệp trong nước. Nhận thức rõ vấn đề này, ngành Ngân hàng tiếp tục coi nhiệm vụ tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu trong năm 2021 để góp phần cùng cả hệ thống chính trị phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng 6%, tạo tiền đề thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cả giai đoạn 2016 - 2020. Trong đó tập trung một số giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, điều hành tín dụng theo hướng mở rộng tín dụng, tập trung vốn cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các dự án trọng điểm, hiệu quả, có sức lan tỏa; định hướng cơ cấu tín dụng phù hợp với chuyển dịch nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững. Đồng thời, kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng.
Tích cực phối hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai các chương trình tín dụng đối với ngành, lĩnh vực theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ như: nông nghiệp nông thôn, doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhà ở xã hội, công nghiệp hỗ trợ, các chương trình mục tiêu quốc gia.
Tăng cường phối hợp với UBND các tỉnh, thành phố triển khai rộng rãi trên toàn quốc chương trình kết nối Ngân hàng - Doanh nghiệp để nắm bắt và kịp thời xử lý khó khăn trong tiếp cận vốn tín dụng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế sau dịch.
Đẩy mạnh triển khai các chương trình tín dụng đặc thù theo ngành, lĩnh vực; tiếp tục chỉ đạo và tạo điều kiện thuận lợi để Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện tốt các chương trình tín dụng đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Thứ hai, chỉ đạo các TCTD:
Cân đối, tập trung vốn để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh, chú trọng vào các lĩnh vực ưu tiên, các dự án hiệu quả, có khả năng phục hồi ngay sau khi kết thúc dịch bệnh; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ rủi ro tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng.
Quyết liệt triển khai các giải pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí theo Thông tư 01/2020/TT-NHNN, đẩy mạnh cho vay mới để người dân, doanh nghiệp có nguồn vốn tiếp tục sản xuất, kinh doanh; phát triển các sản phẩm tín dụng đáp ứng nhu cầu hợp pháp của người dân; đơn giản hóa quy trình thủ tục nội bộ, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận và vay mới nhưng không nới lỏng điều kiện tín dụng, đảm bảo chất lượng, an toàn tín dụng, duy trì hoạt động lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
Tiếp tục tiết giảm chi phí hoạt động, giảm chỉ tiêu lợi nhuận để có điều kiện giảm phí dịch vụ, giảm lãi suất cho vay, nhất là đối với các khoản cho vay cũ, cho vay trung dài hạn cho doanh nghiệp và người dân.
Thứ ba, tiếp tục điều hành chủ động, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là lãi suất và tỷ giá nhằm duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ, ngoại hối, tạo điều kiện cho các TCTD giảm lãi suất cho vay, đảm bảo an toàn hoạt động.
Tiếp tục tổ chức triển khai tiến trình cơ cấu lại gắn với xử lý nợ xấu, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ vào phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại, đặc biệt là hoạt động thanh toán, ngân hàng số, cải cách hành chính... để tạo điều kiện cho các TCTD cải thiện năng lực hoạt động và hỗ trợ tốt hơn cho quá trình phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế.
Trong ngắn hạn, việc các tổ chức tiếp tục thực hiện các biện pháp cơ cấu lại, giãn, hoãn nghĩa vụ trả nợ cho khách hàng có thể giảm bớt áp lực cho doanh nghiệp và người dân vay vốn. Tuy nhiên, về trung và dài hạn sẽ gây ra các rủi ro về nợ xấu cho các TCTD, tạo áp lực lên ổn định hệ thống tài chính - ngân hàng. Vì vậy, cần có sự chia sẻ hợp lý việc hỗ trợ lãi suất cho vay với các doanh nghiệp trong mối quan hệ phù hợp với yêu cầu tiếp tục củng cố và nâng cao năng lực tài chính của các TCTD, đảm bảo an toàn, lành mạnh hệ thống tài chính quốc gia. Để thực hiện được các yêu cầu này, rất cần sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị và sự chung tay vào cuộc của các cấp, các ngành, các địa phương để ngành Ngân hàng vừa hoàn thành được nhiệm vụ chính trị góp phần tháo gỡ các khó khăn, phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo hoạt động an toàn, lành mạnh.
TS. Đào Minh Tú - Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước
Tạp chí Ngân hàng số 3+4/2021