Văn Lạc
Quảng Bình vốn là một tỉnh kinh tế chậm phát triển, tỷ lệ hộ đói nghèo qua điều tra giai đoạn 2006-2010 vẫn còn trên 32%; lao động thất nghiệp còn nhiều, đặc biệt, những năm gần đây tăng lên đáng kể do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu; do vậy, nhu cầu vay vốn để giải quyết việc làm (GQVL) tăng lên gấp bội. Để vượt qua những thử thách đó, Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) tỉnh Quảng Bình đã cố gắng bám sát mục tiêu của nghị quyết Đảng bộ tỉnh, triển khai công tác cho vay GQVL và xác định đây là một trong những nhiệm vụ kinh tế chính trị trọng tâm. NHCSXH tỉnh Quảng Bình cũng đã chủ động đề xuất với các ngành liên quan thành lập đoàn thanh tra, đánh giá chất lượng nợ của từng dự án, đối chiếu trực tiếp đến 100% dự án vay vốn, từ đó có phương án quản lý hiệu quả nợ nhận bàn giao cũng như biện pháp xử lý cụ thể phù hợp với từng món nợ, tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy chính quyền các cấp, các ngành, nhất là Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, truyền đạt, phổ biến, tuyên truyền sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân, tập huấn đến các tổ tiết kiệm vay vốn, các tổ chức chính trị - xã hội, mở rộng thêm màng lưới...
Nhờ những cố gắng nỗ lực trong công tác triển khai cho vay GQVL, từ năm 2011-2015 đã có hơn 6.400 lượt khách hàng vay với tổng mức 128 tỷ đồng, đưa số khách hàng còn vay đến cuối năm 2015 lên 4.494 khách hàng, với tổng dư nợ lên 87,127 tỷ đồng so với cuối năm 2010, tăng 44%. Chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao, nợ quá hạn giảm đáng kể từ thời điểm nhận bàn giao là 6%, năm 2010 là 2,15% thì đến cuối 2015 chỉ còn 0,57%/tổng dư nợ cho vay GQVL.
Các dự án đầu tư chủ yếu là các ngành nghề như trồng trọt, chăn nuôi chiếm trên 50%, đánh bắt nuôi trồng thủy, hải sản chiếm 33%, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ khác là 17%. Trong các dự án cho vay, thì dự án thuộc kinh tế hộ chiếm gần 98% và tập trung ở vùng nông thôn, chủ yếu thu hút lực lượng lao động nông nghiệp nhàn rỗi; các dự án thuộc cơ sở sản xuất kinh doanh đầu tư theo mô hình kinh tế trang trại và các dự án sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm hơn 2%, chủ yếu ở thành phố và thị trấn. Nhiều dự án đã mang lại hiệu quả kinh tế cao và trở thành mô hình mẫu trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo và tạo việc làm cho người dân địa phương.
Điển hình như Dự án nuôi tôm sú trên cát của 7 hộ gia đình tại xã Nhân Trạch (huyện Bố Trạch) vay ngân hàng 130 triệu đồng; Dự án chăn nuôi tổng hợp của anh Đặng Văn Châu tại xã Đức Ninh (thành phố Đồng Hới) vay 150 triệu đã thu hút được gần chục lao động, tạo việc làm thường xuyên và thu nhập 2 triệu đồng/lao động/tháng. Dự án chăn nuôi của trang trại anh Phan Xuân Miên xã Kim Hóa (huyện Tuyên Hóa) vay 100 triệu đồng chăn nuôi lợn và gà. Nay đã trở thành địa chỉ tin cậy cung cấp con giống và nguồn thực phẩm cho địa phương.
Đặc biệt, NHCSXH Quảng Bình đã phối hợp chặt chẽ với Hội Người mù tỉnh giúp đỡ hoàn chỉnh thủ tục giải ngân cho 164 hội viên người mù được vay tổng số tiền trên 1,084 tỷ đồng để phát triển kinh tế gia đình, góp phần giúp họ hòa nhập với cộng đồng, xóa dần mặc cảm khiếm thị, tạo thêm lòng tin yêu với Đảng và Nhà nước, từng bước tạo lập cho họ độc lập về kinh tế gia đình.
Nhờ đầu tư đúng hướng nên chương trình cho vay GQVL đã góp phần không nhỏ trong thực hiện các mục tiêu kinh tế của tỉnh: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 11%, là giai đoạn có mức tăng trưởng cao nhất từ trước tới nay. Cơ cấu kinh tế chuyển biến theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân 3,5 - 4%/năm, sản lượng lương thực đạt 28,4 vạn tấn, vượt 7% so với kế hoạch, GQVL cho 3,1 vạn lao động trên địa bàn.
Những tồn tại và vướng mắc
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác triển khai cho vay GQVL ở Quảng Bình thời gian qua còn bộc lộ những tồn tại và vướng mắc nhất định.
Thứ nhất, nguồn vốn chưa đáp ứng được nhu cầu.Theo đánh giá của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Bình thì vốn GQVL mới đáp ứng khoảng 30 - 35% yêu cầu. Điều đó cũng đúng với thực trạng tại NHCSXH Quảng Bình. Chỉ nhìn lại từ năm 2011 đến 2015 thì nguồn vốn dao động chỉ từ 67 tỷ đồng đến 87 tỷ đồng là cao nhất, bình quân mỗi năm chỉ tăng 4%. Nên dư nợ cũng chỉ dao động từ 69 tỷ đồng - 87 tỷ đồng, bình quân mỗi năm chỉ tăng 3,6%.
Theo Thông tư 107/2005/TT-BTC về việc hướng dẫn quản lý sử dụng Quỹ GQVL tại địa phương có quy định: Hàng năm UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào khả năng ngân sách địa phương, nhu cầu GQVL và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương, bố trí một phần kinh phí trong dự toán ngân sách địa phương để lập quỹ việc làm địa phương. Quy định này không nói rõ tỷ lệ bao nhiêu trong dự toán nên thiếu cơ sở để kiểm điểm việc thực hiện.
Nguồn vốn huy động từ NHCSXH qua tổ tiết kiệm vay vốn và tại Ngân hàng chưa được là bao vì cơ chế huy động còn “cứng”, hình thức huy động còn đơn điệu, lãi suất thường thấp và không có cơ chế khuyến mại như các ngân hàng thương mại khác.
Theo văn bản 2539/NHCS-TD ngày 16/9/2008 hướng dẫn quy trình thủ tục cho vay GQVL củ Quỹ Quốc gia về việc làm, quy định thời hạn cho vay đối với đầu tư mua máy móc phục vụ sản xuất, phương tiện vận tải thủy bộ loại vừa và nhỏ, ngư cụ nuôi trồng đánh bắt thủy, hải sản chỉ từ 24 - 36 tháng, trong lúc thời gian khấu hao của loại máy móc thiết bị này nhiều loại phải từ 7 năm trở lên... Hầu hết các chủ dự án không có vốn tự có hoặc có không đáng kể. Quy định như vậy rõ ràng trích khấu hao hàng năm không thể trả nợ đầy đủ, đúng hạn.
Thứ hai, sự phối hợp giữa NHCSXH với các trọng tâm khuyến nông, lâm, ngư, dạy nghề chưa được thường xuyên liên tục, trong khi sự phối hợp là rất cần thiết và quan trọng nhằm tạo thêm điều kiện thuận lợi, nâng cao kiến thức về khoa học công nghệ mới, nâng cao chất lượng lao động trong sản xuất kinh doanh, góp phần tăng năng suất lao động, sản lượng và suy cho cùng là nâng cao hiệu quả vốn vay.
Thứ ba, nhiều hộ vay ý thức trả nợ kém, tỷ lệ trả nợ theo phân kỳ mới đạt 40% tổng nợ đến hạn, tỷ lệ thu nợ kỳ cuối đạt 5,8%, dẫn đến gia hạn nợ chiếm 50% tổng số nợ phải trả làm ảnh hưởng đến nguồn vốn quay vòng.
Thứ tư, Nghị định 61/2015/NĐ-CP tuy mới triển khai nhưng bước đầu nghiên cứu đã thấy bộc lộ một số vướng mắc nhất định như:
(i) Về đối tượng được vay vốn, ở Điều 23 quy định về đối tượng thụ hưởng rất rộng nên đương nhiên tình trạng xếp hàng dài đăng ký xin vay sẽ vẫn diễn ra.
(ii) Về lãi suất, theo Điều 25 của Nghị định 61 thì NHCSXH cho vay GQVL với thời hạn không quá 60 tháng. Như vậy là có cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Nhưng lãi suất cho vay thì không quy định rõ cho từng thời hạn dẫn đến hai khách hàng cùng là cơ sở SXKD có người tàn tật như nhau, cùng vay số tiền như nhau, nhưng thời hạn khác nhau mà chịu cùng một mức lãi suất như nhau nên phát sinh sự bất hợp lý.
(iii) Theo Điều 29 Nghị định 61 thì việc thẩm định đều do NHCSXH thực hiện. Tuy nhiên, việc trình duyệt thì phải trình qua UBND huyện hay thủ trưởng cơ quan cấp tỉnh. Theo văn bản hướng dẫn 3798/NHCS/TDSV thì quy trình cho vay phải qua 2 lần giám đốc NHCSXH nơi cho vay (một lần ký duyệt để trình cấp thẩm quyền ra quyết định, một lần phê duyệt giải ngân) dẫn đến kéo dài thêm thời gian nhất định trong giải ngân. Mặt khác việc thẩm định hiện nay đều do cán bộ tín dụng NHCSXH thực hiện nên chưa đảm bảo tính khách quan.
Một số đề xuất, kiến nghị
Để đáp ứng được nhu cầu vay giải quyết việc làm, góp phần đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, xin được đề xuất một số kiến nghị sau:
Đối với Chính phủ: Đề nghị Chính phủ nghiên cứu, xem xét sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 61/2015/NĐ-CP:
- Đề nghị nên hạn chế đối tượng được vay vốn bằng cách có thể tăng thêm điều kiện của đối tượng được vay vốn đối với cơ sở sản xuất kinh doanh. Ngoài đảm bảo sử dụng người lao động là tàn tật hay dân tộc thiểu số theo tỷ lệ như quy định còn cần thêm điều kiện đảm bảo tỷ lệ sử dụng số lao động tạo việc làm mới là bao nhiêu. Đồng thời nên ưu tiên những cơ sở sản xuất kinh doanh có sử dụng lao động mới với tỷ lệ cao.
- Để rút ngắn thời gian, việc trình duyệt đề nghị nghiên cứu giao trực tiếp cho NHCSXH mà không cần phải trình duyệt qua UBND huyện hay thủ trưởng cơ quan cấp tỉnh. Nếu ủy thác qua các tổ chức chính trị - xã hội thì do Chủ tịch UBND xã phường phê duyệt dự án vay đến mức 50 triệu đồng.
Đối với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cần chủ trì, phối hợp chặt chẽ với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ tìm nguồn vốn như nguồn vốn của chủ đầu tư ủy thác, vốn ODA có thời hạn dài, lãi suất thấp để bổ sung Quỹ cho vay GQVL.
Đối với NHCSXH Việt Nam:
- Nên phối hợp với các trung tâm khuyến nông, lâm, ngư, dạy nghề để có quy chế phối hợp tạo sự đồng bộ nhịp nhàng, thường xuyên từ trung ương đến cơ sở, giúp đỡ các đối tượng được vay vốn, tăng khả năng hiểu biết về kỹ thuật, quy trình công nghệ, nâng cao trình độ tay nghề để tăng năng suất lao động và hiệu quả trong cho vay GQVL.
- Nghiên cứu để có một hướng dẫn về thẩm định cho vay toàn diện: từ thẩm định về chủ dự án, về tính khả thi, quy mô dự án, hiệu quả và khả năng trả nợ; tiến tới có tổ chức bộ máy tách cán bộ thẩm định riêng để đảm bảo tính khách quan trong xác định hiệu quả và quyết định cho vay.
(Tạp chí Ngân hàng số 8, tháng 4/2017)