Bước đột phá từ tư duy chính sách ở Lào Cai
13/09/2019 2.692 lượt xem
Mặc dù ngân sách địa phương chuyển sang NHCSXH của tỉnh Lào Cai mới đạt gần 90 tỷ đồng, chưa lọt vào câu lạc bộ 100 tỷ đồng của cả nước, song nếu nhìn lại ngày đầu thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW chỉ với gần 16 tỷ đồng thì đó là một bước chuyển ngoạn mục.
 
 
Hội nghị sơ kết 05 năm thực hiện Chỉ thị số 40 của tỉnh Lào Cai diễn ra vào chiều 19/8/2019
 
 
 Đặc biệt hơn, nguồn vốn ngân sách không chỉ từ tỉnh, mà nhiều huyện miền núi khó khăn như Si Ma Cai, Sa Pa,... cũng dành một phần lớn ngân sách của huyện hiện thực hóa những định hướng dự án sinh kế bền vững tạo nên bước đột phá riêng có của Lào Cai trong việc thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội. Ghi nhận từ Hội nghị sơ kết 05 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW của tỉnh Lào Cai (Chỉ thị số 40).
 
Phương thức riêng có phá bỏ lõi nghèo
 
Là một điểm sáng của ngành du lịch không chỉ Lào Cai mà cả nước, song sự hưởng lợi của người dân bản xứ cũng chỉ điểm trên một vài bản quanh thị trấn. Phần còn lại là một Sa Pa đầy nhọc nhằn đối mặt với sinh nhai ở nơi đồi núi có độ dốc lớn, bị chia cắt bởi các dãy núi cao, hiểm trở cùng thiên tai lũ quét và băng tuyết hàng năm. 15/17 xã đặc biệt khó khăn và hơn 95% là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó người Mông chiếm 52%, người Dao chiếm 22,4%. Trước năm 2014, Đảng bộ, chính quyền Sa Pa chưa coi hoạt động tín dụng chính sách là một công cụ hữu hiệu của Đảng về mục tiêu giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Một số bộ phận hộ vay còn nặng tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào các chế độ, chính sách được hỗ trợ cho không, không chấp hành quy định vay vốn, số xã có chất lượng tín dụng thấp có số lãi tồn đọng lớn lâu ngày chiếm đến 2/3 số xã của toàn huyện với tổng dư nợ lãi tồn lớn trên 3,4 tỷ đồng, nợ quá hạn là 1,3 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 0,99%.
 
Chính vì vậy, Chỉ thị số 40 là khoảng lặng để Huyện ủy, UBND huyện Sa Pa nhìn nhận lại việc thực hiện tín dụng chính sách cũng như công cuộc giảm nghèo phát triển bền vững của địa phương. Để rồi từ đó, không chỉ sự sát sao trong việc nâng chất lượng tín dụng từ cấp ủy Đảng, chính quyền. “HĐND huyện đã đưa vào Nghị quyết trích tối thiểu 5 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách huyện hàng năm chuyển sang NHCSXH huyện để cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, cũng như các dự án trọng tâm của huyện”, Phó Chủ tịch UBND huyện Sa Pa Trần Trọng Thông cho biết.
 
Hiệu ứng từ nguồn vốn ngân sách huyện cộng vốn NHCSXH và sinh kế vạch sẵn đã và đang giúp người dân Sa Pa phát triển kinh tế bền vững. Như dự án chăn nuôi bò hàng hóa tại xã Thanh Kim từ nguồn vốn ngân sách huyện chuyển sang NHCSXH cho vay năm 2016 với 34 con bò/17 hộ và bổ sung thêm 37 hộ tham gia dự án bằng vốn vay của NHCSXH, sau 03 năm triển khai đến nay đã có tổng số 259 con bò và bê, bình quân mỗi hộ thuộc Dự án đã có thêm từ 3 đến 4 con. Trong quý III/2019, NHCSXH dự kiến sẽ hoàn thành việc cho vay Dự án chăn nuôi bò tại 2 xã Thanh Phú và Nậm Sài với số tiền gần 1,6 tỷ đồng từ ngân sách huyện chuyển sang. Hay như dự án trồng hoa địa lan tại xã Tả Phìn; Dự án phát triển du lịch cộng đồng tại xã Tả Van, Tả Phìn, Hầu Thào, Sử Pán, Nậm Cang cũng bước đầu ghi nhận những kết quả khả quan.
 
Tính đến 30/6/2019, tổng số nguồn vốn từ huyện chuyển sang NHCSXH huyện là 15,6 tỷ đồng, ngân sách tỉnh chuyển 5,1 tỷ đồng, đưa tổng nguồn vốn của NHCSXH huyện lên 255 tỷ đồng, tăng 132 tỷ đồng so với năm 2013 và hầu hết đã được cung ứng cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách với tổng dư nợ đạt 255 tỷ đồng, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng đạt 102,8% so với cuối năm 2013. Nợ quá hạn chỉ còn 372 triệu đồng, giảm 871 triệu đồng so với năm 2013; số lãi tồn còn 809 triệu đồng, giảm 2.591 triệu đồng so với cuối năm 2013.
 
Với huyện nghèo vùng cao, biên giới theo Nghị quyết 30a/NQ-CP Si Ma Cai, địa khí hậu còn khắc nghiệt hơn vì đất trồng trọt đã ít lại khô cằn vì thiếu mưa. Toàn huyện có 7.234 hộ, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn 95%, 13/13 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn. Chính vì vậy, Nghị quyết số 22-NQ/TU ngày 11/11/2014 của Tỉnh ủy Lào Cai về giảm nghèo bền vững tại huyện Si Ma Cai đến năm 2020 vận dụng linh hoạt từ chính sách cho không nay chuyển sang cho vay thông qua hệ thống NHCSXH tỉnh cấp bù lãi suất đã cổ vũ một phương thức sản xuất bổ sung để người dân có điều kiện cải thiện đời sống, đó là chăn nuôi gia súc tập trung.
 
Huyện ủy, HĐND, UBND huyện Si Ma Cai cũng thống nhất dành và bố trí chuyển nguồn vốn từ ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH để mở rộng cho vay đồng bào dân tộc thiểu số. Lũy kế nguồn vốn ngân sách huyện chuyển qua 05 năm qua đạt gần 28 tỷ đồng để tăng cường cho vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác thực hiện đã góp phần tạo nên bước chuyển lớn trong giảm nghèo bền vững tại huyện nghèo Si Ma Cai. Nguồn vốn chuyển từ ngân sách địa phương qua, riêng 06 tháng đầu năm 2019 có doanh số cho vay là trên 23 tỷ đồng đưa lũy kế cả 05 năm là 22,8 tỷ đồng. Dư nợ cho vay từ nguồn vốn ngân sách địa phương đạt gần 22,5 tỷ đồng, đưa tổng dư nợ toàn huyện tại NHCSXH đến 30/6/2019 lên 211 tỷ đồng, tăng 88,7 tỷ đồng so với cuối năm 2014. Đặc biệt tổng doanh số cho vay lũy kế 05 năm là trên 320 tỷ đồng, với 8.373 lượt khách hàng được vay vốn, đã góp phần hình thành nhiều vùng sản xuất hàng hóa phát triển ổn định cho thu nhập cao như: chăn nuôi đại gia súc, trồng cây ăn quả ôn đới, trồng cây dược liệu, sản lượng lương thực gia tăng. Nguồn vốn tín dụng chính sách đã góp phần giảm 2.204 hộ  nghèo, đưa số hộ nghèo đến cuối năm 2018 về 1.661 hộ, chiếm 22,96% (tỷ lệ giảm 34,05% so với đầu giai đoạn chuẩn nghèo đa chiều). 05/13 xã của huyện Si Ma Cai đạt chuẩn nông thôn mới và không còn xã nào thuộc vùng lõi nghèo của tỉnh.
 
Hứa hẹn những bứt phá mới
 
Kế thừa những thành tựu đã đạt được tại huyện Si Ma Cai, Giám đốc Sở Lao động Thương binh - Xã hội tỉnh Lào Cai Đinh Thị Hưng cho biết trong năm 2019, Sở tiếp tục tham mưu cho tỉnh những giải pháp để giải quyết vùng lõi nghèo theo hướng giảm chính sách cho không, tăng cường hỗ trợ cho vay có điều kiện để hạn chế sự trông chờ, ỷ lại của một bộ phận người dân không muốn thoát nghèo.
 
Đặc biệt, Nghị quyết số 20-NQ/TU ngày 24/5/2019 mà Ban Thường vụ Tỉnh ủy vừa ban hành trở thành một “cú huých” lớn đối việc giảm nghèo bền vững tại các xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 40% trở lên đến hết năm 2020, tầm nhìn đến 2025, có xét đến năm 2030. Theo đó, HĐND tỉnh Lào Cai đã đưa vào Nghị quyết ngân sách tỉnh ủy thác qua NHCSXH bình quân 01 tỷ đồng/xã/năm cho 43 xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 40% trở lên trên địa bàn tỉnh Lào Cai, giai đoạn 2019 - 2025, với lãi suất ưu đãi để cho vay giúp các hộ có điều kiện phát triển kinh tế. “Tập trung cho vay cho vay phát triển kinh tế - xã hội tại các xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 40% trở lên, trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2019 - 2025 là cách làm hay, sáng tạo của Lào Cai trong việc sử dụng nguồn vốn ủy thác tại địa phương. Đây có thể nói là một chính sách có tính đột phá của tỉnh, trong điều kiện nguồn thu ngân sách địa phương còn hạn chế, thể hiện sự quan tâm đặc biệt và quyết tâm cao của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, các Sở, ban ngành, đoàn thể đối với người nghèo và tín dụng chính sách xã hội”, Tổng Giám đốc NHCSXH Dương Quyết Thắng phân tích.
 


Tổng Giám đốc Dương Quyết Thắng cho biết, NHCSXH sẽ tiếp tục quan tâm, chú trọng phân bổ sung nguồn lực để thực hiện tốt chính sách tín dụng ưu đãi tại địa bàn tỉnh Lào Cai
 
Những quyết sách này đã góp phần đưa nguồn vốn nhận ủy thác tại địa phương đã tăng thêm 74,2 tỷ đồng (tăng 576%), nâng tổng nguồn vốn ủy thác của địa phương đến nay đạt gần 90 tỷ đồng. Nguồn vốn ngân sách địa phương đã giúp cho 1.473 lượt hộ nghèo được vay vốn, 4.921 lượt lao động vay vốn duy trì và tạo việc làm.
 
Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Lào Cai Hà Thị Nga khẳng định việc thực hiện đưa Chủ tịch UBND cấp xã tham gia Ban đại diện HĐQT NHCSXH cấp huyện là chủ trương đúng đắn, phù hợp với thực tiễn hiện nay. Với mô hình, cách làm này đã giúp cho chính quyền và người dân gần nhau hơn; qua đó, đã tạo được lòng tin của nhân dân đối với các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và hoạt động của NHCSXH. Chính quyền cơ sở cũng có điều kiện tiếp xúc nhiều hơn với người dân, nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc của người dân, góp phần giữ vững ổn định an ninh, trật tự và an toàn xã hội tại cơ sở... Cùng với MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội vào cuộc tạo được sự thống nhất trong nhận thức và hành động, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong lãnh đạo, chỉ đạo bố trí nguồn lực đẩy mạnh triển khai thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội.
 


Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Lào Cai Hà Thị Nga cho biết, việc đưa Chủ tịch UBND cấp xã tham gia Ban đại diện HĐQT NHCSXH cấp huyện là chủ trương đúng đắn, phù hợp với thực tiễn hiện nay

 
Nhìn lại 05 năm thực hiện Chỉ thị số 40, tổng doanh số cho vay toàn tỉnh Lào Cai đạt 3.580 tỷ đồng với 107.373 lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác được vay vốn từ NHCSXH; Tổng dư nợ đến hết tháng 6/2019 đạt 2.828 tỷ đồng, với 87.002 hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác còn dư nợ. Tăng trưởng tín dụng trong 05 năm là 985 tỷ đồng, tỷ lệ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 10,6%/năm. Nguồn vốn tín dụng chính sách tại NHCSXH tỉnh Lào Cai đã góp phần phát triển chăn nuôi trâu, bò đưa tổng đàn gia súc trên địa bàn tỉnh đạt trên 667 nghìn con, gia cầm trên 3 triệu con, trồng rừng mới phủ xanh đất trống đồi trọc trên 2.500 ha. Vốn tín dụng chính sách đã giúp cho hơn 40 nghìn hộ thoát nghèo, tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh giảm từ 17,61% cuối năm 2014 (theo tiêu chí cũ) xuống còn 16,25% cuối năm 2018 theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016 - 2020; 44 xã/143 xã đạt chuẩn nông thôn mới; bộ mặt nông thôn được cải thiện rõ rệt.
 
Bước tiếp trên một chặng đường mới thực hiện Chỉ thị số 40, Tổng Giám đốc NHCSXH Dương Quyết Thắng đề nghị các cấp ủy, HĐND, UBND tỉnh Lào Cai tiếp tục quan tâm hơn nữa đến hoạt động tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn, hỗ trợ cơ sở vật chất, điều kiện làm việc cho NHCSXH. “Về phía NHCSXH, với tinh thần trách nhiệm cao đối với xã hội, nhất là đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, chúng tôi sẽ tiếp tục quan tâm, chú trọng phân bổ sung nguồn lực để thực hiện tốt chính sách tín dụng ưu đãi tại địa bàn tỉnh Lào Cai, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững và bảo đảm an sinh xã hội tại địa phương”, Tổng Giám đốc Dương Quyết Thắng khẳng định.
 
Từ thực tế sinh động triển khai Chỉ thị số 40 và ghi nhận những ý kiến của Tổng Giám đốc Dương Quyết Thắng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Lào Cai Hà Thị Nga cho biết trong thời gian tới Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Lào Cai tiếp tục quan tâm chỉ đạo NHCSXH và các cấp, các ngành trên địa bàn tiếp tục quan tâm, tăng cường nguồn lực huy động cho hoạt động tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội ngày một tăng lên.
 
Đặc biệt, từ mốc son năm 2019 là năm tỉnh Lào Cai được đánh giá cao và thành công nhất về triển khai Chỉ thị số 40, “Tỉnh ủy và UBND tỉnh sẽ phát huy hiệu quả Chỉ thị tốt hơn trong giai đoạn tiếp theo từ việc chỉ đạo các cơ quan chức năng liên quan, nâng cao chất lượng rà soát, điều tra, xác định đối tượng thụ hưởng tín dụng chính sách, không để một hộ nghèo và các đối tượng chính sách nào có nhu cầu và đủ điều kiện vay vốn mà không được vay vốn tín dụng chính sách xã hội. Cùng với việc tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết số 20-NQ/TU ngày 24/5/2019 của Tỉnh ủy về giảm nghèo bền vững đối với các xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 40% trở lên, tăng tính chủ động của các địa phương trong việc gắn kết các dự án mô hình kinh tế với nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội và tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, Lào Cai sẽ sớm ra khỏi danh sách các tỉnh nghèo của cả nước”, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Lào Cai Hà Thị Nga tin tưởng.

 
CTV

Nguồn TCNH Số 17/2019
Bình luận Ý kiến của bạn sẽ được kiểm duyệt trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Đóng lại ok
Bình luận của bạn chờ kiểm duyệt từ Ban biên tập
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
16/03/2024 2.139 lượt xem
Năm 2024, kinh tế thế giới dự báo tiếp tục khó khăn dưới tác động của điều kiện tài chính thắt chặt, mặt bằng lãi suất còn cao, xung đột địa chính trị, rủi ro tài chính gia tăng, lạm phát có dấu hiệu chậm lại nhưng vẫn cao…; ở trong nước, nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức do bối cảnh cầu thế giới, thương mại quốc tế chậm phục hồi, bảo hộ thương mại gia tăng; sản xuất, kinh doanh tiếp tục khó khăn, mức độ hấp thụ vốn của nền kinh tế vẫn tương đối thấp; những khó khăn trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản vẫn chưa được xử lý căn cơ, đòi hỏi các cấp, bộ, ngành Trung ương và địa phương tiếp tục triển khai nhiều giải pháp tổng thể hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
Triển khai Nghị định số 78/2023/NĐ-CP: Những chuyển động bước đầu và hướng đi trong thời gian tới
15/03/2024 1.952 lượt xem
Ngày 07/11/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 78/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước, có hiệu lực thi hành từ ngày 22/12/2023.
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
Điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lạm phát thế giới tăng cao từ năm 2022 đến nay - Một số khuyến nghị chính sách
14/03/2024 2.741 lượt xem
Giai đoạn từ năm 2022 đến nay, trước bối cảnh Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) liên tục tăng lãi suất, NHNN đã điều hành tỷ giá tương đối ổn định, đặc biệt là tỷ giá với các ngoại tệ như Đô la Mỹ, Euro và các ngoại tệ khác tại các quốc gia có quan hệ giao thương đáng kể với Việt Nam nhằm duy trì ổn định vĩ mô trong nước, hỗ trợ đầu tư, sản xuất phát triển.
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
Cần thiết ban hành khung pháp lý toàn diện và cụ thể để điều chỉnh Fintech tại Việt Nam
13/03/2024 2.042 lượt xem
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến của các tổ chức, cá nhân đối với Dự thảo Nghị định quy định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng (sau đây gọi tắt là Dự thảo Nghị định).
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
Nâng cao kĩ năng cho người dân khu vực nông thôn trong sử dụng dịch vụ ngân hàng trên môi trường điện tử
06/03/2024 2.456 lượt xem
Một trong những sứ mệnh của chuyển đổi số là phổ cập, cá nhân hóa dịch vụ số như giáo dục, y tế, ngân hàng để hướng tới người dân. Ngành Ngân hàng luôn phấn đấu tạo điều kiện thuận lợi cho người dân sử dụng dịch vụ trên môi trường điện tử, trong đó có hướng đến phổ cập tài chính tới vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
Những điểm mới, nổi bật của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024
05/03/2024 5.091 lượt xem
Ngày 18/01/2024, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2024 với 15 chương, 210 điều. Luật Các TCTD năm 2024 đã bám sát quan điểm của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tiền tệ, hoạt động ngân hàng theo nguyên tắc thị trường có sự quản lý của Nhà nước; khắc phục các vướng mắc, bất cập hiện tại; tham khảo thông lệ, kinh nghiệm quốc tế và phù hợp chiến lược phát triển ngành Ngân hàng. Xuất phát từ đó, bài viết tập trung làm rõ những điểm mới, nổi bật của Luật này.
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Dữ liệu thống kê trong phục vụ điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
28/02/2024 2.724 lượt xem
Trải qua hơn 10 năm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, công tác thống kê tiền tệ phục vụ điều hành chính sách của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có nhiều bước tiến đáng kể.
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
Nhận định tác động của chính sách tiền tệ toàn cầu năm 2023 đối với nền kinh tế Việt Nam và một số khuyến nghị
24/02/2024 3.004 lượt xem
Năm 2023 vừa qua đã chứng kiến những biến động mạnh mẽ trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) trên thế giới, nổi bật là việc các ngân hàng trung ương (NHTW) liên tục tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát.
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
Chính sách an toàn vĩ mô tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
13/02/2024 2.770 lượt xem
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các nước đã thừa nhận sự cần thiết của chính sách an toàn vĩ mô (ATVM) trong ổn định tài chính và đặt chính sách ATVM vào vị trí trung tâm của sự tương tác giữa các chính sách kinh tế vĩ mô với chính sách an toàn vi mô.
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Chính sách tài khóa năm 2023 góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
11/02/2024 2.851 lượt xem
Nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2023 được triển khai trong bối cảnh tình hình thế giới phát sinh nhiều biến động, diễn biến phức tạp, khó dự báo. Căng thẳng địa chính trị, tranh chấp giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, xung đột giữa Nga - Ukraine và Israel - Hamas diễn biến bất ngờ, lạm phát và giá nhiên liệu tăng cao khiến đà phục hồi của kinh tế thế giới chậm lại.
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
Phát triển lành mạnh tín dụng tiêu dùng, hạn chế tín dụng đen
07/02/2024 2.901 lượt xem
Thời gian qua, tín dụng tiêu dùng phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 20%/năm, từng bước góp phần giúp người dân, đặc biệt là những người yếu thế tiếp cận được các dòng vốn chính thức; hạn chế tình trạng tín dụng đen.
Bài toán tín dụng năm 2023 và lời giải cho năm 2024
Bài toán tín dụng năm 2023 và lời giải cho năm 2024
31/01/2024 3.148 lượt xem
Năm 2023 đã đi qua với nhiều câu chuyện kinh tế nổi bật và một trong những vấn đề thu hút được sự quan tâm rất lớn trong hoạt động của ngành Ngân hàng là vấn đề tăng trưởng tín dụng.
Triển khai Đề án Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025: Kết quả và giải pháp, định hướng thời gian tới
Triển khai Đề án Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025: Kết quả và giải pháp, định hướng thời gian tới
29/01/2024 3.630 lượt xem
Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) tại Việt Nam giai đoạn 2021 - 2025 (ban hành theo Quyết định số 1813/QĐ-TTg ngày 28/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ - Quyết định 1813) được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đầu mối phối hợp với các bộ, ngành, đơn vị liên quan triển khai thực hiện được hơn hai năm, đã góp phần tạo sự chuyển biến sâu, rộng về TTKDTM trong nền kinh tế, thúc đẩy sử dụng các phương tiện, dịch vụ TTKDTM.
Chính sách tài khóa góp phần ổn định kinh tế vĩ mô năm 2023 và một số khuyến nghị năm 2024
Chính sách tài khóa góp phần ổn định kinh tế vĩ mô năm 2023 và một số khuyến nghị năm 2024
11/01/2024 3.597 lượt xem
Năm 2023, kinh tế toàn cầu phải đối mặt với nhiều rủi ro, bất ổn do tình trạng suy thoái và lạm phát tăng cao lan rộng ở nhiều nước và khu vực; xu hướng thắt chặt tiền tệ thông qua lãi suất cao, các căng thẳng địa chính trị và dư địa tài khóa ngày càng thu hẹp… đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phục hồi kinh tế toàn cầu.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với cổ phần là tài sản bảo đảm tại các tổ chức tín dụng
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với cổ phần là tài sản bảo đảm tại các tổ chức tín dụng
19/12/2023 4.713 lượt xem
Để đảm bảo quyền thu hồi nợ, các tổ chức tín dụng (TCTD) quy định khoản vay phải có tài sản bảo đảm (TSBĐ). Đối với doanh nghiệp, TSBĐ cho khoản vay khá đa dạng, trong đó cổ phần cũng được xác định là một loại TSBĐ. Tuy nhiên, hiện nay, việc thi hành án cổ phần còn nhiều hạn chế, vướng mắc do pháp luật hiện hành thiếu vắng các quy định cụ thể. Bài viết tập trung phân tích vấn đề thi hành án cổ phần là đối tượng trong giao dịch bảo đảm thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự.
Giá vàngXem chi tiết

GIÁ VÀNG - XEM THEO NGÀY

Khu vực

Mua vào

Bán ra

HÀ NỘI

Vàng SJC 1L

79.300

81.300

TP.HỒ CHÍ MINH

Vàng SJC 1L

79.300

81.300

Vàng SJC 5c

79.300

81.320

Vàng nhẫn 9999

68.500

69.750

Vàng nữ trang 9999

68.400

69.250


Ngoại tệXem chi tiết
TỶ GIÁ - XEM THEO NGÀY 
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 24,590 24,960 26,123 27,556 30,490 31,787 158.88 168.16
BIDV 24,645 24,955 26,329 27,558 30,623 31,921 159.49 167.99
VietinBank 24,545 24,965 26,353 27,648 30,916 31,926 160.45 168.4
Agribank 24,610 24,955 26,298 27,570 30,644 31,779 159.81 167.89
Eximbank 24,580 24,970 26,426 27,196 30,846 31,746 161.32 166.02
ACB 24,590 24,990 26,466 27,124 30,989 31,632 160.93 166.09
Sacombank 24,585 24,945 26,552 27,112 31,086 31,598 161.79 166.8
Techcombank 24,616 24,959 26,918 27,538 30,506 31,826 157.09 169.49
LPBank 24,400 25,100 26,147 27,684 30,958 31,917 159.21 170.66
DongA Bank 24,640 24,990 26,440 27,130 30,860 31,710 159.00 166.20
(Cập nhật trong ngày)
Lãi SuấtXem chi tiết
(Cập nhật trong ngày)
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
BIDV
0,10
-
-
-
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,70
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
1,70
1,70
2,00
3,00
3,00
4,70
4,80
ACB
0,01
0,50
0,50
0,50
2,30
2,40
2,60
3,50
3,70
4,50
4,50
Sacombank
-
0,50
0,50
0,50
2,10
2,30
2,50
3,50
3,60
4,50
4,80
Techcombank
0,10
-
-
-
2,20
2,20
2,30
3,40
3,45
4,40
4,40
LPBank
0.20
0,20
0,20
0,20
1,80
1,80
2,10
3,20
3,20
5,00
5,30
DongA Bank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,30
3,30
3,30
4,30
4,50
4,80
5,00
Agribank
0,20
-
-
-
1,60
1,60
1,90
3,00
3,00
4,70
4,70
Eximbank
0,50
0,50
0,50
0,50
3,00
3,20
3,30
3,80
3,80
4,80
5,10

Liên kết website
Bình chọn trực tuyến
Nội dung website có hữu ích với bạn không?