Hoạt động điều hành CSTT đảm bảo cung ứng đủ tín dụng an toàn, hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế nhưng không chủ quan với lạm phát, kịp thời thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho người vay vốn bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19
Bức tranh kinh tế vĩ mô giai đoạn 2016 - 2020
Giai đoạn 2016 - 2020, kinh tế thế giới biến động phức tạp. Chủ nghĩa bảo hộ leo thang, kéo theo căng thẳng gay gắt và chia rẽ thương mại giữa các nước lớn (Mỹ - Trung Quốc, Hàn Quốc - Nhật Bản, Úc - Trung Quốc, Mỹ - EU), tác động tiêu cực đến niềm tin, thương mại, đầu tư, kìm hãm đà phục hồi mong manh của kinh tế toàn cầu; hệ lụy càng trầm trọng khi đại dịch Covid-19 bùng phát và lan rộng toàn thế giới từ đầu năm 2020, kinh tế toàn cầu suy thoái sâu - 4,4% (theo IMF, 10/2020). Thị trường tài chính - tiền tệ quốc tế đầy bất ổn, chính sách tiền tệ các quốc gia lớn đảo chiều từ “bình thường hóa”, tăng lãi suất sang giảm mạnh lãi suất và nới lỏng một cách “chưa có tiền lệ”. Dòng vốn vào các thị trường mới nổi và đang phát triển biến động phức tạp do nhà đầu tư lo ngại rủi ro và trong bối cảnh đồng nội tệ nhiều nước mất giá so với USD.
Sự thay đổi mạnh và nhanh của kinh tế thế giới đưa Việt Nam vào những cơ hội và thách thức đan xen. Chủ nghĩa bảo hộ là rào cản lớn đối với các nước tăng trưởng dựa trên xuất khẩu như Việt Nam; nhưng mang lại cơ hội khi dòng đầu tư dịch chuyển theo hướng giảm sự phụ thuộc quá lớn vào một quốc gia. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) là cơ hội tăng năng suất, đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa kinh tế, đi tắt đón đầu; song, cũng gây nguy cơ tụt hậu kinh tế nếu tốc độ số hóa nền kinh tế không đủ nhanh, tạo áp lực lên thị trường lao động, đối với ngành tài chính - ngân hàng là thách thức ổn định tài chính và bảo vệ lợi ích người tiêu dùng trước sự phát triển nhanh của tài chính công nghệ (Fintech, tiền kỹ thuật số, tiền ảo, cho vay ngang hàng…). Đại dịch Covid-19 khiến kinh tế thế giới suy thoái sâu, nhưng lại là phép thử về sức chống chịu của nền kinh tế nói chung và sức khỏe ngành Ngân hàng nói riêng.
Trong bối cảnh đó, chúng ta đã chủ động củng cố nội lực trong nước, tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức. Nền kinh tế khó lòng chống chịu trước tác động của đại dịch Covid-19 nếu không nhờ những thành quả tích cực của toàn hệ thống chính trị trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó có đẩy nhanh việc cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) gắn với xử lý nợ xấu, thúc đẩy tăng trưởng sáng tạo của khu vực kinh tế tư nhân và doanh nghiệp khởi nghiệp trên nền tảng tinh thần “Chính phủ kiến tạo”, duy trì bền vững sự ổn định kinh tế vĩ mô, chủ động hội nhập với việc ký kết hàng loạt các hiệp định thương mại, đầu tư song phương, đa phương (KVFTA, CPTPP, EVFTA, EVIPA, RCEP,…).
Giai đoạn 2016 - 2019, ngay trước khi xảy ra đại dịch, kinh tế Việt Nam đã chứng tỏ sự năng động với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình là 6,8%/năm, chất lượng tăng trưởng cải thiện nhờ nâng cao năng suất1; lạm phát được kiểm soát dưới 4%2, tạo môi trường vĩ mô ổn định, thu hút FDI, từ đó thúc đẩy xuất khẩu và xuất siêu liên tiếp trong bối cảnh thương mại quốc tế sụt giảm. IMF đánh giá năm 2020 quy mô GDP của Việt Nam có thể đứng thứ 4 ASEAN; hệ số tín nhiệm quốc gia liên tục tăng3. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch, với chủ trương đúng đắn của Chính phủ, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam vẫn đạt 2,91% -
thuộc nhóm nước tăng trưởng cao nhất thế giới và đứng đầu các nước ASEAN; trong khi môi trường vĩ mô tiếp tục ổn định, trong đó lạm phát cơ bản bình quân năm 2020 ở mức 2,31%, góp phần kiểm soát lạm phát bình quân chung ở mức 3,23%.
Đóng góp từ hoạt động điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) của Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
Thứ nhất, phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng các công cụ CSTT để kiểm soát tiền tệ, thực hiện mục tiêu lạm phát đặt ra
Thực hiện Luật NHNN năm 2010, NHNN kiên định đề xuất chỉ tiêu lạm phát hàng năm để Chính phủ trình Quốc hội thông qua, ở mức khoảng 4% nhằm đảm bảo ổn định, neo giữ kỳ vọng lạm phát. Các công cụ CSTT được điều hành chủ động, linh hoạt, phối hợp nhịp nhàng trong kiểm soát tiền tệ; CSTT phối hợp chặt chẽ với các chính sách vĩ mô khác để điều tiết thanh khoản, điều chỉnh các mức giá do Nhà nước quản lý nhằm đạt được mục tiêu lạm phát đặt ra. Kết quả cho thấy, tổng phương tiện thanh toán (M2) giai đoạn này được kiểm soát hợp lý, hàng năm chỉ tăng trong khoảng 12,21 - 15%, qua đó ổn định lạm phát cơ bản trong khoảng 1,41 - 2,31%, tạo dư địa để Chính phủ điều chỉnh giá các mặt hàng và dịch vụ Nhà nước quản lý mà vẫn nằm trong mục tiêu kiểm soát lạm phát Quốc hội đặt ra.
Thứ hai, đảm bảo cung ứng đủ tín dụng an toàn, hiệu quả cho tăng trưởng kinh tế nhưng không chủ quan với lạm phát, kịp thời thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho người vay vốn bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19
Hàng năm, căn cứ mục tiêu tăng trưởng và lạm phát do Quốc hội đặt ra, NHNN xây dựng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng định hướng, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến và tình hình thực tế; thông báo chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với từng TCTD và linh hoạt rà soát, điều chỉnh chỉ tiêu đã giao trên cơ sở tình hình tài chính, khả năng mở rộng tín dụng lành mạnh; chỉ đạo các TCTD kiểm soát chặt chẽ việc cấp tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, chứng khoán. Kết quả, tăng trưởng tín dụng đã đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế và phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát, hiệu quả tín dụng cải thiện.
Giai đoạn 2016 - 2019, tăng trưởng tín dụng chậm lại từ mức 18,25% xuống 13,65%, trong khi tăng trưởng kinh tế được đẩy mạnh tương ứng từ 6,21% lên trên 7% năm 2018 và 2019. Các chương trình, chính sách tín dụng ngành, lĩnh vực tiếp tục đạt kết quả tốt, trong đó có các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ như nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu,...; tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát phù hợp, tích cực đóng góp cho phát triển kinh tế bền vững (Đồ thị 1).
Năm 2020, NHNN đã khẩn trương triển khai các giải pháp tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ nền kinh tế khắc phục tác động của đại dịch Covid-19 với việc kịp thời ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN ngày 13/3/2020 tạo hành lang pháp lý, cơ chế đột phá để TCTD tháo gỡ khó khăn về vốn vay cho khách hàng (cơ cấu lại nợ gốc và lãi, không chuyển nợ xấu, không tính lãi phạt; miễn giảm lãi, phí); đồng thời, liên tục tổ chức Hội nghị kết nối ngân hàng - doanh nghiệp trên toàn quốc, khảo sát thực địa, tiếp nhận và giải quyết kịp thời khó khăn, vướng mắc của người dân, doanh nghiệp. Đến ngày 28/12/2020, tín dụng tăng 11,08% so với cuối năm trước và tăng 11,65% so với cùng kỳ 2019, hỗ trợ tích cực cho sự phục hồi kinh tế trong đại dịch.
Thứ ba, điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến vĩ mô, lạm phát, hài hòa lợi ích của doanh nghiệp và người gửi tiền
Mặt bằng lãi suất trong nước dễ có áp lực gia tăng do nhu cầu vốn của nền kinh tế tập trung chủ yếu tại hệ thống ngân hàng, đồng thời dễ bị tác động bởi sự biến động phức tạp của thị trường tài chính - tiền tệ thế giới.
Giai đoạn 2016 - 2018, xu hướng lãi suất thế giới tăng mạnh, dẫn đầu là Fed với chu kỳ “bình thường hóa CSTT”, tăng lãi suất liên tục (Đồ thị 2), nhưng mặt bằng lãi suất trong nước vẫn tương đối ổn định. Điều này là nhờ nền tảng kinh tế vĩ mô được giữ ổn định, NHNN kiên định thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát thông qua kiểm soát M2, tín dụng phù hợp, ổn định các mức lãi suất điều hành.
Từ nửa cuối năm 2019 và năm 2020, căng thẳng thương mại giữa các quốc gia lớn tác động tiêu cực lên triển vọng kinh tế toàn cầu và dưới tác động của đại dịch Covid-19, NHNN đã chủ động, kịp thời 04 lần giảm liên tục các mức lãi suất điều hành, tổng mức giảm 1,75 - 2,25%/năm nhằm chia sẻ khó khăn với khách hàng vay. Giải pháp điều hành lãi suất thực hiện song song với việc đảm bảo thanh khoản cho các TCTD và ổn định thị trường tiền tệ; định hướng các TCTD rà soát, cân đối khả năng tài chính để áp dụng mức lãi suất cho vay hợp lý đảm bảo an toàn hoạt động, đẩy nhanh xử lý nợ xấu để giảm chi phí.
Những giải pháp đồng bộ này giúp lãi suất nước ta hiện nay chỉ bằng khoảng 40% so với mức lãi suất nửa cuối năm 2011 (Đồ thị 3). Thống kê của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho thấy, so với các nước láng giềng ASEAN có trình độ phát triển tương đồng, lãi suất cho vay bình quân của Việt Nam ở mức trung bình4.
Thứ tư, điều hành ổn định tỷ giá và thị trường ngoại tệ nhằm ổn định niềm tin của nhà đầu tư và người dân, chống đô-la hóa, nâng cao uy tín quốc gia
Từ năm 2016, NHNN bắt đầu thực hiện cách thức điều hành tỷ giá mới theo cơ chế tỷ giá trung tâm biến động hàng ngày bám sát diễn biến thị trường và mục tiêu CSTT là đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, củng cố niềm tin vào VND, thực hiện chủ trương của Chính phủ về chống đô-la hóa nền kinh tế. Điều hành linh hoạt tỷ giá trung tâm kết hợp với mua, bán can thiệp ngoại tệ phù hợp với điều kiện thị trường; chủ động truyền thông dưới nhiều hình thức để định hướng, ổn định tâm lý thị trường khi có áp lực bất lợi; phối hợp chặt chẽ với các công cụ CSTT khác (thanh khoản VND, lãi suất, tín dụng…).
Nhờ kinh tế vĩ mô ổn định cùng với các biện pháp điều hành chủ động, linh hoạt, thị trường ngoại tệ những năm vừa qua nhìn chung ổn định, thanh khoản ngoại tệ thông suốt, nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của doanh nghiệp và người dân được đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Tỷ giá VND/USD cơ bản ổn định mặc dù thị trường tiền tệ thế giới biến động mạnh, là tiền đề để người dân giảm mạnh nắm giữ ngoại tệ, qua đó chuyển hóa nguồn lực ngoại tệ thành VND để phát triển kinh tế, phù hợp với chủ trương chống đô-la hóa (tiền gửi ngoại tệ của dân cư tại hệ thống ngân hàng ngày 28/12/2020 giảm gần 40% so với cuối năm 2015). Dự trữ ngoại hối Nhà nước được củng cố đáng kể, góp phần nâng cao tiềm lực tài chính và uy tín quốc gia, năm 2020 ước khoảng 4 tháng nhập khẩu.
Năm 2020, NHNN điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến vĩ mô, lạm phát, hài hòa lợi ích của doanh nghiệp và người gửi tiền
Triển vọng kinh tế giai đoạn 2021 - 2025
Kinh tế thế giới giai đoạn 2021 - 2025 được dự báo sẽ còn diễn biến phức tạp trong bối cảnh gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, cùng với những yếu tố khó lường từ đại dịch Covid-19. Cấu trúc kinh tế toàn cầu sẽ thay đổi sâu sắc; theo đó, chuỗi sản xuất, tiêu thụ dịch chuyển nhằm đa dạng hóa, giảm sự phụ thuộc quá lớn vào một quốc gia; xu hướng số hóa nền kinh tế sẽ được đẩy mạnh ngay cả sau khi dịch bệnh kết thúc, tạo ra những thay đổi lớn trong cách thức tổ chức, vận hành nền kinh tế và thúc đẩy năng suất lao động. Sự phân cực trong cục diện kinh tế, chính trị toàn cầu sẽ đẩy mạnh xu hướng liên kết, hình thành các nhóm nước theo các cực khác nhau, tạo thành các khối kinh tế, thương mại, tài chính. Biến đổi khí hậu diễn ra nhanh hơn dự kiến, tác động tiêu cực lên sản xuất nông nghiệp, kinh tế biển, hệ sinh thái và công tác an sinh xã hội của các Chính phủ.
Ở trong nước, chúng ta có lợi thế đi tắt đón đầu các cơ hội trên cơ sở những thành công trong khống chế đại dịch, duy trì nền tảng kinh tế tích cực, Việt Nam hiện là điểm sáng trong bức tranh kinh tế toàn cầu và khu vực. Chính phủ kiên định chủ trương xây dựng và vận hành “Chính phủ kiến tạo”, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện môi trường kinh doanh và thúc đẩy nhanh hơn quá trình hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh kinh tế tư nhân, thu hút có chọn lọc đầu tư nước ngoài, tăng tốc quá trình số hóa nền kinh tế, phát triển các loại hình dịch vụ thế mạnh và hiện đại. Các hiệp định tự do đã ký kết giai đoạn vừa qua dự kiến sẽ phát huy tác dụng mạnh hơn trong giai đoạn 2021 - 2025. Việt Nam đang trong thời kỳ dân số vàng với sự gia tăng nhanh chóng của tầng lớp trung lưu, thúc đẩy tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ, trong đó có các tiện ích và dịch vụ ngân hàng hiện đại. Giai đoạn 2021 - 2025, Chính phủ định hướng tiếp tục kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tốc độ tăng trưởng bình quân từ 6,5 - 7,0%/năm để có thể vượt ra khỏi nhóm nước đang phát triển thu nhập trung bình thấp vào năm 2025.
Như vậy, nước ta đang đứng trước những thời cơ và triển vọng to lớn trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, đại dịch Covid-19, những biến chuyển phức tạp, khó lường của kinh tế, chính trị quốc tế, xu thế CMCN 4.0, biến đổi khí hậu… đòi hỏi chúng ta phải khôn khéo, linh hoạt tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức, phấn đấu đạt được mục tiêu nêu trên. Điều này cũng có nghĩa là cần tiếp tục khắc phục những tồn tại, hạn chế trong giai đoạn 2016 - 2020 về năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và tính tự chủ của nền kinh tế, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế và ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Mục tiêu, định hướng điều hành CSTT giai đoạn 2021 - 2025
Bối cảnh trên đây đã khẳng định tính thời sự của các nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 986) trong việc góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2025. Trên tinh thần chỉ đạo của Chính phủ “tiếp tục đổi mới tư duy phát triển, hành động quyết liệt hơn, hiệu quả hơn...” (Báo cáo của Thủ tướng Chính phủ tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, tháng 10/2020) và triển khai Quyết định số 986, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong điều hành CSTT giai đoạn 2021 - 2025 bao gồm:
Về quan điểm điều hành, tiếp tục điều hành chủ động, linh hoạt CSTT và phối hợp chặt chẽ với các chính sách vĩ mô khác để kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Trong đó, thời gian đầu của giai đoạn 5 năm 2021 - 2025 khi nền kinh tế vẫn chịu tác động tiêu cực từ đại dịch Covid-19, tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ các hoạt động kinh tế, giảm thiểu tác động của dịch bệnh.
Các nhóm giải pháp điều hành trọng tâm bao gồm:
Một là, phối hợp nhịp nhàng các công cụ CSTT trong kiểm soát tiền tệ; điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và thị trường tiền tệ; điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường, các cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu CSTT.
Hai là, từng bước đổi mới khung khổ CSTT, chuyển dần từ điều hành theo khối lượng tiền sang chủ yếu điều hành theo giá, trong đó nghiệp vụ thị trường mở tiếp tục là công cụ chủ yếu điều tiết vốn khả dụng của các TCTD. Nâng cao năng lực phân tích, dự báo phục vụ hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành.
Ba là, điều hành tín dụng theo hướng tăng trưởng tín dụng gắn với chất lượng tín dụng, đảm bảo cung ứng vốn cho nền kinh tế; tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn; chỉ đạo TCTD tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất, ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro; hạn chế tín dụng ngoại tệ, tiến tới ngừng cho vay ngoại tệ nhằm góp phần đẩy lùi tình trạng đô-la hóa nền kinh tế.
Bốn là, phát triển thị trường tiền tệ ổn định, tăng cường sự minh bạch trong công bố thông tin nhằm thúc đẩy hiệu quả cơ chế truyền tải CSTT; xây dựng hệ thống thông tin quản lý hoạt động thị trường tiền tệ liên ngân hàng để hỗ trợ điều hành của NHNN và nhu cầu của các TCTD.
Năm là, thúc đẩy sự phối hợp giữa CSTT với các chính sách vĩ mô khác của Chính phủ trong điều hành kinh tế vĩ mô theo hướng đồng bộ, nhất quán nhằm đạt được mục tiêu chung về phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.
1Giai đoạn 2016 - 2019, năng suất lao động tăng 5,8% (vượt mục tiêu đề ra là 5%); đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng GDP ở mức 45,2%, cao hơn mục tiêu đề ra là 30-35%.
2 2016: 2,66%; 2017: 3,53%; 2018: 3,54%; 2019: 2,79%; 2020: 3,23%.
3 Moody’s nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam từ B1 lên Ba3 (tháng 8/2018); Fitch Ratings nâng mức xếp hạng tín nhiệm Việt Nam từ BB- lên BB (tháng 5/2018) và khẳng định duy trì mức xếp hạng BB; Standard & Poor’s lần đầu tiên sau 9 năm đã điều chỉnh tăng xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam từ mức BB- lên BB (tháng 4/2019).
4 Đến tháng 7/2020, lãi suất cho vay của Việt Nam ở mức 7,8%/năm, thấp hơn lãi suất cho vay của Indonesia (9,41%/năm), Mông Cổ (16,92%/năm), Bangladesh (7,79%/năm), Myanmar (14,5%/năm) và Ấn Độ (9,05%/năm). Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa đối với các lĩnh vực ưu tiên của Việt Nam là 4,5%/năm, thấp hơn lãi suất cho vay bình quân của ASEAN-4 là 4,8%; lãi suất cho vay bình quân của ASEAN-6 là 5,7%/năm.